Monday, November 03, 2008

Waste time online...

Tìm vợ online

Tôi nhớ rất rỏ ngày đám cưới của tôi... mọi người đều thắc mắc ai là ông bà mai thì tôi chỉ ngay cái máy tính. Vào cái thế kỷ 20 - 21 này... duyên nợ chẳng những là tiếng sét ái tình khi chàng và nàng tình cờ gặp mặt mà tiếng sét ái tình đó còn lan truyền qua cả những sợ dây điện thoại, thông qua modem len lỏi giữa những bit, bytes thông tin đánh vào 1 trái tim nào đó ở 1 góc nào đó của thế giới mạng.

Chuyện tôi quen bà xã lên mạng cũng là chuyện tình cờ khi mới lên đại học. Lúc đó tuy khoái 1 con nhỏ em kết nghĩa nên lên trên whowhere tìm email của nó... đánh vào cái tên Tiffany Nguyễn chẳng biết may rủi thế nào lại pop lên 1 cô Tiffany Nguyễn nào đó và từ đó tiếng sét ái tình của tui truyền đi hơn 2000 cây số len qua các đường dây điện thoại, chạy qua các mạng lưới Internet và đến tới trái tim nàng.

Vào cái thời 1996 khi Internet còn là thứ xa xí phẩm của cuộc sống... và những chuyện tình online bắt đầu lúc đó mọi thứ đều lạ lùng thú vị. Phần lớn của thì giờ của tôi ngoài giờ học là lên các chat room tìm bạn để làm quen để cho bớt cô đơn khi mới tới sống ở 1 vùng xa lạ. Con người kể ra cũng quái di ở điểm là mình có thể kết bạn với những người chung quanh thì lại không muốn, cứ phải kiếm người xa lạ để tỉ tê... vừa để được nổ, vừa để được sạo. Lúc ban đầu thám hiểm internet, chỉ trong vòng 2 tuần tôi đã có 5, 6 con mồi để theo đuổi. Trong số đó có cả 2 con Mỹ, một đứa 18, 1 đứa 17. Con 18 vừa gởi hình cho tui qua thư bưu điện xong thì tui lập tức xóa xổ nó ra khỏi danh sách bởi vì nó cũng tóc vàng, mắt xanh nhưng nhìn không giống những minh tinh hay những con bé mỹ xinh xắn khác ở trường tôi học. Con 17 thì đở hơn ... nhưng tui biết đụng vào nó thì có thể bị mang tội quyến rủ con gái vị thành niên rất là rắc rối.

Thôi thì ta về ta tắm ao ta... đành thu gọn đối tượng theo dõi lại còn 3 cô. 1 cô thì học ở gần, 2 cô thì ở xa. 2 cô thì học bác sĩ... 1 cô thì học ngành kinh tế. Khi mục tiêu đã xác định thì lại phải chọn đối tượng... nói chung thì kinh nghiệm online hay ngoài đời là phải kiếm ra người nào chân thật, luôn luôn trước sau như 1 và đặc biệt phải biết quan tâm tới đối phương. Tôi giữ liên lạc với cả 3 cô 1 cách đằm thắm nhưng đối với bà xã của tôi thì có vẽ đặc biệt hơn nhiều. Bà xã tôi có cái tên là Hoàng Dung... chắc tại ngày xưa ông già vợ mê phim chưởng cho nên lựa cái tên đó. Tôi đành mở 1 email account mới trên juno là Quách Tỉnh quyết tâm chinh phục trái tim nàng. Bà xã tôi tính tình hơi "ngây ngô" cho nên truyện trò email có vẽ thú vị nhiều hơn 2 cô còn lại. Bà ấy còn hỏi bộ tôi tên Quách Tỉnh thật hả? Còn tôi thì luôn dùng võ công trong "Anh hùng xạ điêu" để chinh phục trái tim của nàng. Tới 1 ngày... bà xã tôi mới hỏi tôi bộ thương bà ấy thật à... vì cuối email nào cho bạn gái tôi cũng viết "Rất T....." Thấy nàng đã mỡ lời "ngây thơ" như vậy thì mình đành gật đầu cái rụp cho dù chưa biết mặt mũi ra sao. Các bác cũng thây phong cách viết của tôi là hay chơi chấm lững để người ta tự nghĩ sao thì nghĩ. Đặc biết lối chấm lững này vô cùng hữu hiệu khi đánh vào những trái tim lãng mạn hay nghĩ vu vơ... Từ đó trở đi tụi tui ngọt ngào hơn tha hồ tặng hoa tặng card điện tử. Thậm chí gọi nhau bằng những gì ngọt ngào, nhột nhạt nhất mà không ai có đủ can đảm mở miệng để tán gái bằng những lời lẽ nịnh đầm nỗ văng miễng tới như vậy.

5 tháng sau khi quen biết trên mạng... tôi quyết định đi gặp nàng để tiến tới 1 bước. Sau khi năn nĩ ỉ ôi, gởi hết cuốn album của tôi cho nàng, thậm chí đồng ý sẻ phải cưới nàng sau khi gặp mặt và quen biết và mãi cho đến trước ngày lên máy bay được 2 hôm thì nàng mới gởi cho tôi 1 tấm hình củ hồi mập nhất của nàng khi đã ăn no bơ sữa xứ Mỹ cho tôi biết mặt. Nhận được hình thì tôi không biết đánh giá sắc đẹp thế nào bèn đưa cho mấy đứa bạn nó nhìn thì đứa lắc đầu còn 1 đứa khác cười hỏi tôi sao nàng nhìn "ngố" quá vậy. Nói gì thì nói đàn ông nói chung ai mà chẳng tham sắc... nhưng tôi lại là đàn ông thì lại càng phải biết giữ chữ "tín", vé đã mua rồi, đã hứa là đi gặp nàng rồi, địa chỉ và hình ảnh tên tuổi của mình nàng đã biết rồi thì làm sao mà nuốt lời được. Tôi nhớ lúc hứa với nàng là sẻ cưới nàng tôi cũng hơi bạo miệng vì tôi nhớ rất rỏ lá số tử vi của tôi nói tôi sẻ lấy vợ cũng xinh xắn, mặt tròn trĩnh... nhìn hình thì mặt nàng quả thật là tròn... nhưng khó lòng mà có thể cho trên 5 điểm như ngày xưa tôi thường dùng từ 1 - 10 để đánh giá phụ nữ.

1 ngày đẹp trời của mùa xuân, tôi đáp 2 chuyến bay gần 2000 cây số đi tìm định mệnh. Vì là lần đầu tiên sau khi tới Mỹ mới đi xa và gia đình nàng thuộc loại khó khăn + nàng còn nhát cho nên tôi phải tự mướn xe hơi để lái từ phi trường tơi trường của nàng để gặp mặt. Nàng cho tôi biết 4:30 nàng phải về nhà, vì về trể sẻ bị má la và kết quả sau khi đáp máy bay, mướn xe hơi và đánh lộn với cái bản đồ, bị lạc 1 hồi tôi tới cổng trường nàng lúc 4:40 và vội vã chạy tới chổ hẹn để chỉ nhìn mặt cho kịp lần... nhưng lúc đó thì chỉ có nàng nhìn thấy tôi trong khi đang lái xe vội vã về nhà cho đúng giờ. Tôi đành buồn bã lái xe 1 mình về khách sạn. Gia đình nàng rất khó cho nên mối quan hệ kiểu online của tụi tui đã làm cho má nàng không thích vì vậy không thể đường đột lại nhà được.

Ngày hôm sau tôi đến trường đúng hẹn... và tôi đã gặp nàng. Mắt tôi thì cận nhìn thấy nàng mặt cái áo của trường đại học của tôi tặng cho nàng tôi thấy lại càng thất vọng... Chẳng là lúc đó ở trên trường cũng có khoảng 2, 3 cô thuộc loại xồn xồn, thây tui bị tóc bạc sớm tưởng tui thuộc loại chú hai... nên tân công tui tới tấp làm cho tui rất ngán những người xồn xồn như vậy. Tôi cận thị lại không đeo kiếng nên chỉ thấy từ xa 1 cô sồn sôn đi lại gần tôi và cười.. kiểu tóc thì quá già... nhìn từ xa nàng như bà già ba mươi mấy - bốn chục. Thôi thì đã lở rồi... là người lịch sự mình không thể chạy bạt mạng ra parking leo lện xe, bỏ chạy ra phi trường rồi tốc lên máy bay thẳng về nhà. tôi đành mạnh dạn hồi hộp đứng chờ định mệnh của tôi từng bước, từng bước tiến gần tới vị trí...

Khi nàng còn cách tôi 4 thước thì tôi tự nhiên cảm thấy nhẹ nhàng... nhất là khi cặp mắt cận của tôi không còn lừa dối tôi nữa vì nàng cũng còn trẻ, rất hợp với tuổi làm bạn gái của tôi (nhỏ hơn tui 4 tuổi)... vì mái tóc của nàng bị chổ nào làm hư cho nên quăn tít như kiểu tóc của những bà 40. Mắt nàng to, mủi cao, tay chân nhỏ nhắn theo đúng tiêu chuẩn chân Tàu, ngực Mỹ... Nàng đã giảm đi 30 pounds 15 ký sau khi chụp tấm hình gởi cho tôi. Và tôi tự biết rằng tôi sẻ không thoát khỏi cùm xích của tình yêu và hôn nhân từ đó.

Có lẻ nàng tôi là người bạn gái tốt bụng nhất từ trước tới giờ mà tôi quen... vì mỗi lần chia tay đi trở về, nàng đều dúi vào túi tôi 1 phong thư đựng 200 - 250 USD để phụ vào tiền vé máy bay mổi lần tôi đi gặp nàng mặc dù lúc đó mổi tháng làm thư ký thêm ở trong trường nàng tôi chỉ có thể nhận được khoảng 200. Đối với tôi thì nàng chỉ là 1 đứa bé vì bị nhốt kín và quản lý chặt chẻ cho nên không biết gì nhiều về thế giới bên ngoài. 1 đứa bé tốt bụng, ngây thơ, thiếu kinh nghiệm cuộc sống và đày lòng thương người.

Tụi đến nhà nàng gặp gia đình nàng ngày hôm sau... Quả thật là vô cùng khó khăn để thuyệt phục mẹ nàng tôi là người xạ lạ nhưng đàng hoàng tuy ở xa 2000 cây số nhưng rất đáng tin tưởng. Lần đầu gặp mặt rất là lạnh lùng. Thậm chí xin phép cho nàng đi uống nước cũng bị từ chối vì người ta không biết tôi là ai để tin tưởng giao con gái họ cho. Chuyện khó khăn nhất của tôi không phải là cua bà xã tôi... mà phải cua được trái tim bà má vợ để có thể cho 1 người từ thế giới ảo đến với con gái bà ở thế giới thật. 3 tháng sau tôi trở lại thăm gia đình với đầy đủ album hình ảnh gia đình để giới thiệu cho bà. 3 tháng kế tôi ráng vét túi học sinh nghèo mua vé để dẩn ông bà già bay đi 2000 cây số để chứng minh cho má vợ tương lai là tôi nghiêm túc... và cuối cùng khi má vợ tương lai đích thân qua thăm gia đình tối vào cuối năm đó thì nhiệm vụ cực kỳ khó khăn nhất đã hoàn thành.

Sau đó cứ 3 tháng tôi lại đi thăm nàng. Cái thành phố nhỏ bé của nàng trở nên quen thuộc với tôi vì mổi lần tôi qua thăm tôi lại dẫn nàng đi thăm những di tích, cảnh đẹp hay viện bảo tàng của thành phố đó mặc dù nàng sống ở đó vài năm nhưng chưa bao giờ có dịp, hay không có bạn để đi tói những chổ này. Bay đi, bay lại thấm thoát lần thứ 7 chúng tôi gặp nhau chính là ngày lể hỏi và lần thứ 9 gặp nhau thì là đã là lể cưới. Điều tui rút ra được từ kinh nghiệm của mình đó là phải thật thà, thật thà và thật thà. Nếu thiếu thật thà thì những chuyện tình online chỉ là những trò đùa không nghiêm túc và mất thì giờ.

Phần 2: Tìm "Ghệ Nhí" Online

Thấm thoát sau khi đám cưới với bà xã đã hơn 7 năm... cũng chính là 7 năm tôi từ giã thế giới ảo để làm 1 người chồng, người cha có trách nhiệm.

Mấy tháng trước bà xã xin nghĩ phép về nhà bên ngoại chơi 2 tuần, tôi đi chung 1 tuần rồi trở về sớm 1 mình đê tiếp tục đi làm; bà xã và 2 con ở lại bên ngoại thêm 1 tuần lể. 1 tuần lể đột nhiên trở thành ngượi độc thân, thời gian rảnh rồi vô cùng. Không phải rửa chén sau khi ăn, giặt quần áo cuối tuần, cho con đi ngủ, đánh thức chúng dậy, chở đi học... làm 1 người độc thân quả nhiên là vô cùng rảnh rổi.

Rảnh rổi và cô đơn chính là đồng lõa của thói lăng nhăng trăng hoa của đàn ông... tôi buồn buồn bèn lên mạng tìm bạn để khây khỏa nổi nhớ vợ. . Lấy 1 cái nick tây không ra tây, ta không ra ta... tôi nhảy vào YIM tìm vào phòng chat để tìm người chọc ghẹo. Ngoài những câu gào thét, chửi bới, mời gọi trong chat room thật khác xa những gì của 9 - 10 năm trước. 1 cô gái mạnh dạn làm quen với tôi bằng tiếng anh
"how r u?"
và tiếp theo là
"how old?"

Tuy hơi sốc về lối hỏi tuổi trực tiếp kiểu này, tôi vẫn trả lời và bắt chuyện... giới thiệu mình là người gốc phi châu 26 tuổi đang học cao học ở Mỹ. Cô bé đó tiếng anh chat cũng khá hỏi tôi biết gì về VN... tôi nói với cô ta tôi quen rất nhiều bạn VN và từng theo bạn về VN chơi nên biết rành về VN lắm...

Sau 1 đồng hồ chọc ghẹo cô sinh viên năm hai ở Đại học An Giang này tôi mới nói với cô ta tôi là VK và xin lổi là đã chọc cô ấy. Cô ấy hỏi tôi làm gì...và bao nhiêu tuổi thì tôi lại phia ra mình vừa ra trường đang đi làm 26 tuổi. Thế là tôi trở thành 1 đối tượng được chăm sóc đặc biệt của cô ấy. cô ấy tâm sự nào là vừa bỏ bạn trai, nào là muốn thoát khỏi VN....vv.. Mệt mỏi với cô này, tôi bèn cáo lui đi ngủ và hẹn bửa sau tái nạm.

Ngày hôm sau tôi vào Yahoo chat room thấy 1 cô có 1 cái nick đại khái giống cogaixauxi tôi rành tâm lý phụ nữ đẹp là thích nói ngược nên mạnh dan làm quen liền. Vẫn với hồ sơ 1 VK 26 tuổi, vừa tốt nghiệp đại học đang đi làm, tôi bắt chuyện với cô em khá là sôi nổi.

- Cô ta nói cô ấy xấu lắm... tai sao tôi lai quen.
- Tôi nói tôi rất xấu trai nên chỉ muốn quen người xấu.
... và cứ như thế nói qua, nói lại. Cô ta không tin tôi là VK cho nên tôi đành phải xổ cả tràng tiếng Mỹ. Cuối cùng cô đòi xem webcam... thì tôi nói tôi dùng labtop và mới và YIM nên không có webcam. cứ thế là lại qua 1 đêm thứ 2 vắng vợ.

Cô gái này vừa từ giả lập tức 1 cô khác tên đại khái là gaianchoi hay cái gì đó nhảy vào chat với tôi bằng câu:

- Chat sex ko?
- OK. Tui nhanh nhẩu đáp
- Co wc o?
- Khong. Tui trả lời.
- Bye.
- Khong co wckhong chat duoc sao? - Tui hỏi.
- Ko chat. Bye.

Thiệt là xốc!

Ngày hôm sau nàng "xấu xí" lên mạng đúng giờ hẹn

- nho em ko?
- Nhớ - tui trả lời.
- co webcam chua?
- Chưa có thì giờ đi mua - tui trả lời.

Rồi cô ta hỏi tui tại sao không xin coi webcam của cô ấy? Tui trả lời... biết em xấu rồi thì coi làm gì, chẳng thà không biết mặt chát còn vui hơn. (Cáo già quá) Thế là tự ái của nàng nổi lên cuồng cuộng... quyết định cho tôi xem wc của nàng. Sau vài phút trục trặc kỷ thuật 1 khuông mặt khả ái, tóc dài, mắt to hiên lên wc! Nếu tui chưa có vợ chắc sẻ mua vé bay về VN ngay hôm sau.

Nàng hỏi tui thấy sao??? tui không trả lời, nàng hỏi thêm vài lần nữa... tui trả lời rằng "em đẹp quá là anh chết trân không gỏ được gì nữa"! (xạo hết chổ nói) Nàng khoái chí cười gục mặt trên keyboard... và hỏi 1 câu rất xốc:
- Co yeu em ko?
Lạy chúa tôi! Đang nằm trên giường giữa 12 giờ khuya tôi cũng bật dậy vì sốc mà trả lời
- Có nhưng không dám vì em quá đẹp..

Trò chuyện 1 hồi tôi mới nói thiệt là tui đã có gia đình và có con rồi để thử ý cô ta... cô ta nói không sao... người có gia đình cũng đáng yêu. Nàng hẹn tôi bữa sau.

Bữa sau đúng hẹn lên gặp nàng... nàng cà kê dê ngỗng 1 hồi rồi ngõ ý đang bị kẹt cần 300 đóng tiền học! Tôi liền xin địa chỉ mau mắn trả lời và ngay sau đó và yahoo delete cái nick đó vĩnh viễn.

Những cuộc du ngoạn trên Net sau đó ở những forum VN trở nên càng buồn tẻ đại khái chỉ gặp những cô "em muốn thoát khỏi chổ này", "có bạn VK giới thiệu cho em", "em cần giúp đở"... Thậm chí có cả em thuộc hàng cao thủ làm quen trải qua cả 2-3 tuần trò chuyện chỉ muốn làm quen quan tậm.. để rồi cuối cùng vẫn phun ra là muốn xin 1000 để mở 1 tiệm bán phone.

Kể từ đó tôi thấy thất vọng ở thế giới ảo này, vì không còn kiếm được 1 nàng giống bà xã tui, sẳn sàng hào phóng đút vào túi bạn trai $200 - $300 mổi lần gặp mặt. Thế giới ảo đã bị con người lạm dụng và làm cho nó đen tối...

Saturday, May 24, 2008

Don't get MAD get WISE..

People not only become angry for different reasons but the anger takes different forms depending on the learner beliefs, past experience and immediate perception. While you practice returning to the true, original, anger free you, old wounds will continue to emerge as different forms of anger within your consciousness, and then through your behaviour . Here are some practical inner exercises and methods you can use to either head them off at the pass, or begin to heal them.

1. IRRITATION
You create this when things don't happen fast enough
Solution: Cultivate patience and a serene acceptance that everything and everyone has their own rhythm, their own pace of living. And if it's tapping fingers that are bothering you, either start tapping yourself, or gently request them stop tapping.

2. FRUSTRATION
You create this when things don't go the way you wanted or expected or envisaged
Solution: Accept the things went - embrace, work with, and learn from what happened. Accept the way things are. Always respond proactively in the NOW, not reactively against the PAST! Only then will the future begin to turn out be closer to what you envisage.

3. GRUDGE
You create this when you believe you have been wronged by someone in the past.
Solution: Remember, no one hurts you mentally or emotionally, you do it to yourself...always!

4. RESENTMENT
You create this towards those whom you think have insulted you.
Solution: It's not other words that hurt, it's what you did with those words in your own mind. Think of that person who is thick skinned. Nothing seems to affect them. Develop a thick skin. Learn to hear but not hear. Imaging the person who is hurling the insults in encased in a glass jar and while you see their lips move you cannot hear their words.

You also create resentment when you are jealous of someone.
Solution: Stop comparing and aspiring to be like someone else. Get on with your own life. You cannot be someone else and no one owes you anything.

5. CONTEMPT
You create this following your judgement and deep dissapproval of another's actions.
Solution: Separate the person from the action and remember their actions begin with their beliefs. They have likely learner (like you) the wrong beliefs. Remind yourself you cannot control others - suspend your judgement. Don't approved or disapprove. Just watch, Then imagine the most proactive response. Then do it!

6. HATE
You create this when you decide someone represent evil or extreme nastiness.
Solution: Notice how you are making yourself an emotional slave of the object of your hate and that means you are not free, and that means you are unhappy. Remember everyone is intrinsically good, they just forgot. See their hate and their actions as a cry for help, a cry for attention, a cry for love.

7. RAGE
You create this following the build up of anger normally in response to others actions which you deem obstructive or invasive.
Solution: It's time to get help, attend a course, get a coach, enter therapy, learn meditation.

ACTIONS: Visualize yourself in the same situation being anger FREE!

Người Việt Nam đầu tiên có máy bay riêng

Ông Đoàn Nguyên Đức. Ảnh: An Nhơn.

Ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai vừa tậu chiếc máy bay hạng thương gia loại 12 chỗ, trị giá khoảng 7 triệu USD. Dự kiến, chiếc máy bay sẽ về VN ngày 14/5.

Chiếc máy bay mà bầu Đức, ông chủ đội bóng Hoàng Anh Gia Lai đặt hàng là loại tàu bay 12 chỗ mang tên Beechcraft King Air 350, số seri FL-417 do hãng Raytheon Aircraft (Mỹ) sản xuất; động cơ Pratt & Whitney PT 6-60 A (Canada). Giá bán vào khoảng 7 triệu USD.

Đây là loại máy bay mới đời 2008 và khi về đến VN, không phải chịu bất kể loại thuế nào. Hiện thuế nhập khẩu đối với máy bay và các phụ tùng máy bay hiện tại là 0%.

Mốt "xài" máy bay tư nhân rộ lên ở một số nước thuộc khu vực châu Á cách đây vài năm. Hồi tháng 7 năm ngoái, một cửa hàng chuyên bán máy bay cá nhân và máy bay trực thăng đầu tiên ở Trung Quốc cũng tuyên bố khai trương. Còn tại Việt Nam, dù thị trường đã bắt đầu mở cửa cho phép hãng hàng không tư nhân được tham gia thị trường, tuy nhiên, theo ông Lại Xuân Thanh - Cục phó Cục Hàng không Dân dụng - hiện chưa có một cá nhân nào sở hữu chuyên cơ.

Cũng theo ông Thanh, Luật Hàng không cho phép bất cứ cá nhân nào cũng có thể sở hữu một chiếc máy bay tư nhân, miễn là phải đảm bảo các điều kiện về độ an toàn, chứng chỉ bay... Thuế nhập khẩu đối với máy bay và các phụ tùng máy bay hiện tại là 0%.

Như vậy, ông Đức là người đầu tiên của VN sắm máy bay – phương tiện đi lại xa xỉ nhất vì mục đích cá nhân. Trước đó, bầu Đức cũng được dư luận cả nước và thế giới biết đến với danh hiệu “ông trùm” mới nổi ở châu Á khi có ý định “nhòm ngó” Câu lạc bộ bóng đá Anh - Arsenal lừng danh. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đang có kế hoạch mua 20% cổ phần của Arsenal trong vài ba năm tới.

Hồng Anh


Bầu Đức nộp 4 tỷ đồng tiền thuế cho máy bay riêng

Ông Đoàn Nguyên Đức, chủ đội bóng phố núi Hoàng Anh Gia Lai vừa bỏ ra 4 tỷ đồng để đóng thuế VAT 5% cho chiếc máy bay hiệu Beechcraft King Air 350.
> Người Việt Nam đầu tiên có máy bay riêng / Bầu Đức sẽ tốn 10.000 USD thuê phi công mỗi tháng \ Máy bay của bầu Đức trễ hẹn về nước vì thời tiết

Sau khi hoàn tất thủ tục thuế, hôm 21/5, Chi cục Hải quan Sân bay Tân Sơn Nhất đã thông quan cho chiếc King Air 350, giá khai báo hải quan là 5,1 triệu USD.

Beechcraft King Air 350, số serier FL-417 do Hãng RaytheonAircraft (Mỹ) sản xuất có 12 chỗ ngồi, trang bị động cơ Pratt & Whitney PT 6-60 A (Canada). Ảnh: portfolio.

Theo quy định, King Air 350 không phải chịu thuế nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt mà chỉ phải nộp thuế VAT 5%. Sau khi tham vấn giá, Phòng trị giá tính thuế Hải quan TP HCM chấp nhận giá khai báo 5,1 triệu USD và như vậy số thuế mà ông Đức phải nộp sẽ là 4 tỷ đồng.

Trao đổi với VnExpress sáng nay, "bầu" Đức cho biết, tổng số tiền mà ông phải bỏ cho vụ mua bán này vào khoảng 7 triệu USD, trong đó giá trị thật của máy bay là 5,1 triệu. Số còn lại là chi phí môi giới, đào tạo phi công, bến bãi... "Chúng tôi đang làm các thủ tục xin cấp phép bay, lấy chứng chỉ an toàn... theo đúng Luật Hàng không trước khi cất cánh lên bầu trời", ông Đức nói.

Chiếc Beechcraft King Air 350 do hãng Beech Aircraft Corporation Mỹ chế tạo được ông Đức đặt mua cách đây 6 tháng. Máy bay có số serier FL-417, đã bay 3.000 giờ, bảo hành 3 năm. Đây là máy bay phản lực cánh quạt hai động cơ loại nhỏ, sức chở tối đa 11 người, thân dài hơn 10 m, sải cánh hơn 15 m, buồng lái có chỗ cho 2 phi công.

Ông Đức mua King Air 350 bằng tiền túi cá nhân, nhưng máy bay cũng sẽ phục vụ công việc kinh doanh cho công ty bên cạnh nhu cầu cá nhân du lịch, đi lại... Riêng các khoản chi phí như trả lương phi công, phí đậu sân bay, tiền xăng (một giờ bay của chiếc Beechcraft King Air B350 khoảng 350 kg xăng)... đang được tính toán, có thể sẽ do ông Đức chi trả hoặc tính vào chi phí của công ty.

Hồng Anh

Bill Gates

Quỷ Satan mang tên Bill Gates

Đang là thần tượng của không ít người nhưng Bill Gates cũng là kẻ thù không đội trời chung của một số khác. Nhiều người xem ông là anh hùng mã thượng, nhưng cũng có ý kiến xem Gates “chỉ là một kẻ gian hùng, khôn lanh và quỷ quyệt”.

Thậm chí họ còn gọi ông là Quỷ Santan Bill Gates.

Để tránh cái biệt danh “Kẻ làm việc thiện bủn xỉn”, Gates tuyên bố ông cùng vợ thành lập Hiệp hội thư viện Gates trị giá khoảng 200 triệu USD. Tuy nhiên, đó lại là một ví dụ nữa cho thấy ranh giới mập mờ giữa làm từ thiện và chiến lược công ty.

Stewart Alsop, chủ của Agenda, viết trên tờ Fortune hồi tháng 9/1996 rằng ông đã tiên liệu trước cái chết của Netscape. Hệ trình duyệt Internet Explorer của Microsoft mới chỉ lác đác xuất hiện trên thị trường một năm trở lại, thị phần cũng chỉ khoảng 10%. Tuy nhiên, với Alsop, điều đó có nghĩa dự đoán của ông chỉ một hoặc hai năm nữa sẽ thành hiện thực. “Chủ tịch Bill Gates đã biến con vật kếch sù phần mềm (Netscape) trở thành của chẳng đáng một xu” - tuần báo Newsweek viết như vậy trong số cuối năm.

“Chẳng đáng một xu” - đó là lối sáo ngữ trong nội bộ công nghiệp phần mềm. Và nếu đó không phải không đáng một xu như Gates đã phù phép thì ông cũng đã làm đảo lộn cả một lĩnh vực giống như sao đổi ngôi hoặc thay đổi hướng di chuyển giữa chừng, như động tác của Micheal Jordan trên sân bóng rổ. “Gates làm được cái mà chỉ có một vài giám đốc điều hành dám làm” - Jeffrey Katzenberg nhận xét, trong cuộc trả lời phỏng vấn của tờ Newsweek. Katzenberg chính là đồng sáng lập của DreamWorks và đồng thời là đối tác của Gates. “Ông ấy đã kiếm được 8 tỉ USD, một công ty với 20.000 nhân công và làm một cú quay ngoắt đầy bất ngờ''.

Thực sự, Gates phải mất 18 tháng để làm cú đảo ngược tình thế. Và ông không làm điều đó nhiều, vào ngày 7/12, thời điểm tăng tốc nỗ lực trong Microsoft. Đầu năm 1997, Microsoft chỉ là một công ty hầu như kiếm tiền chủ yếu từ hệ điều hành và phần mềm ứng dụng Office, cái mà chính Microsoft thành thật nhìn nhận là “Những ứng dụng năng suất”. Tuy nhiên, báo chí lại viết với một sự kinh ngạc về khả năng của ông như thể ông đã lấy một cỗ xe độc mã rệu rã – một nhà máy sản xuất – rồi tân trang lại để tận dụng lợi thế của thị trường ghế xe hơi bọc da trong tương lai. Ông có thể biến rơm thành vàng. Ông có thể biến nước thành dầu. Ông là nhà phù thủy tài ba. George Gilder chẳng ngại ngần tuyên bố Gates là CEO số một của nước Mỹ.

Tỷ phú Bill Gates. Ảnh: celebrity.

Ở mỗi thời đều có một biểu tượng xứng đáng. Miền tây hoang dã hồi thế kỷ 19 đã cho chúng ta những nhà tư bản cao su. Vào thời tiêu dùng tăng vọt của thập niên 1980, chúng ta được thấy Micheal Milken và Ivan Boesky đã tham lam như thế nào. Rồi cơn bão kiếm tiền của thập niên 1990 đã cho ra đời những kẻ tham công tiếc việc, ngoan cố để kiếm được hàng đống tiền, có khi lên đến hàng chục tỉ đô la. Chúng ta có thể bị chế ngự bởi sự thừa mứa tồi tệ nhất của thập niên 1980, song miễn là các công ty không đổ dầu ra cảng và chúng thực sự làm được điều gì đó thì ở đây vẫn còn cái để yêu. Microsoft là một công ty đáng để chúng ta trân trọng, một công ty không thuốc lá, thân thiện với môi trường, một công ty tạo thế cạnh tranh tuyệt hảo cho nước Mỹ.

Điều gì xảy ra nếu Gates là Thành Cát Tư Hãn của chủ nghĩa tư bản, nếu thỉnh thoảng điểm vào cách ứng xử hung bạo, tàn ác hoặc ít nhất cũng thô lỗ quê kệch của Steve Ballmer. Tiền bạc là câu chuyện của những năm 1990 và những người thực hành có khả năng nhất chính là ông bầu của chúng ta. Vào thời điểm này hoặc thời điểm khác, liệu có ai từng nghĩ cuộc sống sau này của mình sẽ dễ dàng thế nào nếu chỉ, 10 năm trước đó, đã từng mua một chút “tầm nhìn” của người đàn ông này?

Năm 1997, Microsoft đã ra thông cáo báo chí, tuyên bố là công ty Mỹ “hào phóng nhất” đối với các chương trình làm từ thiện. Ngay sau đó, công ty tuyên bố đã tài trợ cả tiền mặt và phần mềm với tổng trị giá lên tới 73,2 triệu USD, và cái tin này đã chiếm cả một trang trên tờ The Wall Street Journal. Có điều, 15% tổng trị giá đó là phần mềm tài trợ cho một tổ chức nhân đạo. Mặt khác, Microsoft đã định giá phần mềm bằng giá bán lẻ, do đó một bản Microsoft Office chỉ tốn từ 1 hoặc 2 USD để đóng gói và dán tem đều được tính giá 599 USD.

Nếu tính theo cách đó, IBM thực sự đã viện trợ nhân đạo hơn Microsoft khoảng 20 triệu USD, trừ một điều, IBM không định tổng giá trị viện trợ theo giá bán lẻ. Có người cho rằng, việc Microsoft tài trợ phần mềm cho trường học hoặc thư viện khó có thể liệt vào hành động viện trợ nhân đạo. “Cho phần mềm là một chiến lược tiếp thị hợp lý” - Tom McNichol bình luận như vậy trên tờ Salon, một trong những tạp chí có uy tín nhất nước Mỹ. “Tuy nhiên, đó không phải là hành động từ thiện, có cái gì còn hơn thế khi Ford Foundation bỏ ra hàng triệu đô la cung cấp bộ phận truyền lực miễn phí mà chỉ thích hợp với các loại xe của hãng Ford”.

Năm 1997, cá nhân Gates tài trợ 20 triệu USD cho Đại học Cambridge để xây dựng tòa nhà mang tên ông. Một năm trước, Gates cũng bỏ ra 15 triệu USD viện trợ cho Đại học Harvard (cũng cùng một mục đích) và 12 triệu USD cho Đại học Washington. Và giới hoạt động nhân đạo coi Gates chẳng hơn gì chính công ty của ông. Quy luật không chính thức là viện trợ chỉ 1% trong tổng thu nhập một năm. Trong một thập niên tính đến năm 1997, Gates đã tài trợ tổng cộng khoảng 70 triệu USD, hoặc 1/3 trong 1% tổng thu nhập của ông vào thời điểm đó.

Trong khi đó, ông ta lại bỏ ra gần một nửa để mua đồ trang sức cho riêng mình, một trong số các bản thảo của danh họa Leonardo da Vinci. Gates giàu đến nỗi có thể qua mặt được cả Chính phủ Italia để mua bản thảo đó với giá 31 triệu USD để khóa vào tủ kính trong nhà riêng của mình. “Không quan trọng là anh có bao nhiêu, vấn đề là anh muốn hơn thế” – Ted Turner trả lời phỏng vấn Larry King sau khi Turner hứa tài trợ 1 tỷ USD cho Liên Hiệp Quốc. “Trong 9 tháng trước, lợi nhuận thực của Turner nhảy từ 2,2 tỷ USD lên tới 3,2 tỷ USD. Và khoản 1 tỷ viện trợ cho Liên Hiệp Quốc, theo ông này, chẳng là cái gì đó to tát. Ngược lại, lợi nhuận thực của Bill Gates tăng thêm 20 tỷ USD trong cùng thời gian.”

Để tránh cái biệt danh “Kẻ làm việc thiện bủn xỉn”, Gates tuyên bố ông cùng vợ thành lập Hiệp hội thư viện Gates trị giá khoảng 200 triệu USD. Tuy nhiên, đó lại là một ví dụ nữa cho thấy ranh giới mập mờ giữa làm từ thiện và chiến lược công ty. Microsoft có thể tài trợ 200 triệu USD bằng phần mềm, song hiệp hội phải dùng hầu hết số tiền để đào tạo nhân sự về việc sử dụng máy vi tính dùng hệ điều hành Windows và trình duyệt Internet Explorer. Đó chính là một món quà nữa không phải ngẫu nhiên đã làm lợi cho Microsoft. Đó đồng thời cũng là khoản thù lao của người đàn ông có tới 40 tỉ USD. Tính đến đầu năm 1998, Gates đã tài trợ tổng số 270 triệu USD, chưa đến 1% tổng thu nhập thực của ông. Một năm sau, Gates và vợ tuyên bố viện trợ thêm 100 triệu USD cho các chương trình tiêm phòng trẻ em ở thế giới thứ ba, chưa tới một nửa trong 1% tổng thu nhập trong năm đó.

Đã nhiều năm, Gates tuyên bố làm từ thiện phần lớn số tiền mình có. “Tôi không có thời gian nghĩ ra nên làm từ thiện cái gì cho có ý nghĩa”, Gates nói vậy, có lẽ ông ta không nhận ra, không ai đặc biệt trong số chúng ta – những người phải toát mồ hôi khi nhìn thấy chồng hóa đơn mỗi tháng, lại có thời gian theo đuổi những việc có ý nghĩa đó. Người đàn ông này nổi tiếng về sức làm việc, người tự hào nói có thể dự 8, 9, thậm chí 12 cuộc họp mỗi ngày, vậy mà lại tuyên bố không có thời gian.

Tất nhiên, ông ta lại có thời gian với một đống việc khác. Vài năm trở về trước, Gates và tỉ phú vùng Seattle, Craig McCaw, đã trở thành đối tác tại Teledesic, một công ty vệ tinh. Gates đồng thời cũng thành lập một công ty lưu trữ ảnh có tên Corbis, nơi quản lý bản quyền kỹ thuật số của bức họa La Giaconda (Mona Lisa) và hàng loạt bức họa nổi tiếng khác, giống như kho lưu trữ Bettman Archive, một bộ sưu tập ảnh toàn diện nhất thế giới. Tại sao không? Đó có thể là cả một tài sản lớn, khi các nhà xuất bản Internet ngày càng có nhu cầu về các bức ảnh được nhiều người ưa thích.

Cái lý do thiếu thời gian của Gates chính là câu đầu tiên các ông chủ phần mềm tin học thốt ra khi ta hỏi tại sao họ không chịu làm từ thiện. Do đó, những nhà tài phiệt trẻ đã tự đầu tư vào chính mình. Brian Pinkerton, 32 tuổi, đã mua ngôi nhà trị giá 600.000 USD ở Atherton (thành phố giàu có thứ sáu nước Mỹ do tạp chí Worth bình chọn) chỉ để phá hủy ngay sau khi anh này có tư cách sở hữu. Điều đó có nghĩa anh này bỏ ra 600.000 USD, cộng với cả phí thu dọn giải phóng mặt bằng, chỉ đổi lấy một mảnh đất không nhà.

Mua nhà để biến thành đống gạch vụn là chuyện thường đến nỗi những người địa phương gọi đó là hợp đồng san nền. Còn Patricia Leigh Brown của The New York Times thì gọi đó là “Hành động xây dựng gây chú ý”. Còn trường hợp của nhà Proulxs, cũng ở Atherton, giàu có chủ yếu nhờ vào vận may của Tom Proulx, đồng sáng lập công ty Intuit. Gia đình Proulxs rất yêu ngôi nhà mình song nó sẽ rất đẹp khi đằng sau là cái sân golf 9 lỗ. Do đó, họ đã mua ba lô đất bên cạnh để xây sân golf và sau đó dùng tổ chức tiệc ngoài trời. Barbara Proulx nói với The New York Times: “Điều đầu tiên tôi làm là đánh bóng qua cửa sổ. Người ta có thể nghe được những âm thanh thích thú khi kính vỡ”.

Một khi bạn truy cập vào trang web về Bill Gates của Marcus, bạn cũng có thể truy cập vào tất cả các trang web liên quan Gates, trong đó có website của Brad Templeton tên “Chỉ số tài sản của Bill Gates” hay trang web mang nội dung rất cuốn hút “Biến tôi giàu hơn Bill Gates” của Jim Denison. Denison, người Texas, cung cấp nhiều sự lựa chọn cho những ai đóng góp vào quỹ của ông. Bạn có thể gửi cho ông ta toàn bộ số tiền (nếu đóng góp 40 tỷ USD, bạn sẽ được coi là “Người bạn suốt đời” của Denison), hoặc 40 người – mỗi người góp cho ông ta 1 tỉ USD, bạn sẽ trở thành “người bạn thân mới của tôi”. Denison viết: “Tài liệu này là trò khôi hài, và không nên xem trọng nếu như bạn không có ý định giúp đỡ biến tôi thành người giàu hơn Bill Gates...”.

Trang web Templeton cho phép bạn so sánh tài sản mình với tài sản Bill Gates. Nếu tài sản của bạn là 100.000 USD, Gates giàu gấp 400.000 lần bạn. Và nếu bạn mua ngôi nhà hết 400.000 USD, ngôi nhà đó chỉ đáng giá 1 USD theo cái mà Templeton gọi là “đôla Gates”. Một máy laptop xịn chỉ đáng giá chưa tới 2 cent tính theo đơn vị “đôla Gates”. Một chuyến du lịch trị giá 10.000 USD tới châu Âu? Tương đương 3 cent! Bạn có thể mua vé máy bay Boeing 747 với giá 1.200 USD.

Tính theo “đôla Gates”, ông chủ Microsoft có thể mua được ba chiếc Boeing, một cho riêng mình, một cho nàng Melinda và một cho đứa nhóc Jennifer Katharine. Động cơ của Richard Petersen không phải là nhắm vào núi tiền của Gates mà là những việc tốt mà Gates có thể làm. Richard Petersen viết trên trang web của mình: “Đầu tiên, tôi chỉ đặt câu hỏi: Gates có thể làm được gì với tất cả tiền của mình.

Tuy nhiên, tôi loại bỏ ý nghĩ đó bởi vì phần lớn những gì mọi người nói là ông ấy nên cho tôi một ít”. Petersen được coi là điển hình của giới xuất bản web. Đầu năm 1996, ông lập công ty Z Publishing, nơi có một phòng duy nhất và hai máy tính trông có vẻ đắt tiền tại San Francisco. Ông ta chẳng hiểu mình kiếm tiền thế nào với nghề xuất bản web, song sau này ông ta cũng chẳng bận tâm đến chuyện đó. Petersen không phải tuýp người giàu mua nhà để đập nhà, song ông ta lại cho đi chút tiền kiếm được từ những ngày làm chủ một doanh nghiệp phần mềm, và ông ta cũng đủ giàu để theo đuổi những sở thích tốn thời gian như lập trang web chửi rủa Bill Gates và nhiều người khác.

Trang web đầu tiên của Petersen là về cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Và Gates chỉ là sự lựa chọn thứ ba của Petersen, sau website về Đức Giáo hoàng. Giữa năm 1998, số người xem trang web về Gates nhiều hơn cả trang Bill Clinton và Giáo hoàng cộng lại. Cũng chẳng có gì nhiều trên trang Gates. Chỉ là vài đoạn tiểu sử, vài quan sát thú vị (ví dụ, Gates, với tư cách Chủ tịch Microsoft, đã bán được nhiều đĩa hơn Michael Jackson), và các đường link sang website khác về Gates. Ảnh chụp các lâu đài biệt thự của Gates vẫn chưa hoàn thành, các bài viết thì cóp nhặt từ báo khác, với một số trích dẫn từ một cuốn sách.

Tuy nhiên, Petersen đã chọn cái tên hoàn hảo cho trang web và đặt một tấm ảnh sinh động tạo vẻ cuốn hút ở góc trên của trang: ảnh đầu của Gates gắn với thân hình trần truồng của một vận động viên cử tạ. Ngay lập tức, trang web thu hút được hàng nghìn độc giả mỗi tháng. Trang web Petersen không chỉ là cuốn sách dành cho công chúng mà còn là trang web cá nhân. Bạn có thể gửi thư trực tiếp tới Bill Gates (chỉ cần click vào địa chỉ e-mail của Bill). Góc riêng tư của trang web bị giới hạn truy cập nhưng sẽ chẳng có vấn đề gì nếu bạn biết mã code và cũng chẳng quá khó đối với các “chuyên gia giải mã”. Một số người gửi e-mail cho Gates chỉ để nói rằng ông thật vĩ đại, một số nói ông ta là kẻ khốn kiếp. Tuy nhiên, như Petersen cảnh báo, đa số những người gửi e-mail cho Gates bởi họ thèm muốn tiền của ông.

Ngoài ra, còn có vô số trang web khác nói về đế chế ma quỷ Microsoft và một hiệp hội “Ngăn chặn Bill Gates lấy mọi thứ”. Chưa kể cả một hội chống Internet Explorer. Bạn có thể tham gia vào danh sách chống Microsoft. Thành viên hội này coi Gates như một tên quỷ số một (Evil One) và các sản phẩm của Microsoft là những “Windoze”, “Windblows”, “Winblah” hay “Winshit”. Còn có cả những trang web kêu gọi tẩy chay Microsoft: “Trang web chính thức căm thù Microsoft”; “Tại sao tôi ghét Bill” với lý do “Tiền của Microsoft nói lên tất cả”. Đầu năm 1997, trang “Chặn Gates lại” đã khởi xướng sáng kiến dải băng xanh. Từ đó, tất cả trang web chống Microsoft đều trương lên dải băng màu xanh. Có những website coi Gates như Đức quốc xã. Một số website khác gọi Gates là quỷ Satan và vẫn còn nhiều website lấy mặt Gates làm bao đấm công cộng. Bạn có thể đấm vào ảnh người đàn ông giàu nhất thế giới này khi truy cập vào trang “Đấm Bill Gates”. Ngoài ra, bạn cũng có thể bỏ ra cả ngày chơi game “Billy Killer”. Với trò chơi này, người chơi được bắn vào hình Gates bay lượn như những con vịt. Người chơi càng bắn được nhiều Gates càng được nhiều điểm. Theo thống kê, cụm từ “Giết Bill Gates” xuất hiện nhiều gấp hai lần cụm từ “Giết Bill Clinton” trên Internet.

Chỉ cần bước vào thế giới trên, bạn cũng biết đủ nhiều người nghĩ thế nào về Gates và Microsoft. Tại trang “www.microsuck-.com”, người ta trương khẩu hiệu “Ngày nay bạn muốn copy ai?” (Trong khi khẩu hiệu của Microsoft là: Ngày nay bạn muốn đi tới đâu?). Bản tuyên ngôn nhằm nêu rõ: “Quan điểm chủ yếu của chúng tôi là: Cuộc sống quá ngắn để vùi đầu vào cái mớ Windows 95”. Bạn cũng có thể phung phí thời gian để xem người ta ghét AOL hoặc Intel bằng cách truy cập vào các trang AOL Sucks của Nester hoặc Trang chủ bí mật của Intel.

Tuy nhiên, chỉ có người đàn ông giàu nhất thế giới này – Bill Gates – và những người có thế lực nhất thế giới trong ngành công nghệ máy tính mới thực sự quan tâm tới thái độ thù ghét. Thậm chí, một số trang web còn chứng minh bằng thuật số rằng, Gates là kẻ thù của Chúa bởi vì những chữ cái trong tên của ông được thêm vào 666, (theo Kinh thánh, đó là ký hiệu của quỷ dữ). “Ngày nay, bạn phải làm gì nếu bạn muốn thu hút sự chú ý” – phát ngôn viên Microsoft, Mich Mathews, hỏi. “Bạn tự hỏi tại sao mình lại không chỉ trích Microsoft? Điều đó sẽ khiến mình có tên trên vài tờ báo”. Tuy nhiên, thực tế không đơn giản.

Đối với Mitch Stone, cảm hứng được khơi gợi từ mục quảng cáo của Microsoft trên tờ Los Angeles Times số ra tháng 8-1996, thông báo công ty sẽ phát không trình duyệt của mình. Stone là người dùng trình duyệt Mac và chẳng bao giờ để ý đến Microsoft, dù nó nổi trội hơn cái mà ông đang dùng. Đối với Stone, đó là ví dụ điển hình về thực trạng cá lớn nuốt cá bé. Công ty lớn dùng túi tiền khổng lồ để đàn áp đối thủ nhỏ. Ngay cuối tuần đó, Stone viết một bài kêu gọi tẩy chay Microsoft. Ông đã gửi bài này tới một số bạn bè để rồi họ lại gửi cho những người khác. Và rồi, trang web “Tẩy chay Microsoft” ra đời.

Stone bắt đầu chiến dịch chống Microsoft ở tuổi 42. Chẳng ai ngờ ông lại trở thành nhà hoạt động chống Microsoft, bởi Stone là nhà bảo vệ lịch sử và chỉ dùng đến máy tính khi cần thiết. Tuy nhiên, khi ông truy cập Internet để tìm các website chống Microsoft, những gì trông thấy khiến ông bực mình. “Tôi thấy một đống những cụm từ Giết Bill và một đống những từ ngữ thô tục. Chỉ có một số câu là thận trọng”. Trong vòng vài tháng, trang web của Stone đã thu hút được 1.000 lượt truy cập mỗi ngày. Không giống như những “đồng chí” khác trong sự nghiệp chống Microsoft, Stone là nhà xuất bản web đích thực. Trái với những website khác chỉ có đường nối đến các bài báo về Microsoft, Stone đã xuất bản một danh sách dài các bài báo đặc biệt viết cho website của mình.

Trong nhiều năm, Stone viết được vô số bài, cùng khoảng 10 cây viết khác nữa. Trong một tài liệu mà Stone gọi là “Bản tuyên ngôn”, ông giải thích rằng, ông đã làm công việc xuất bản và biên tập vì báo chí kinh doanh quá bận rộn với việc “nhai lại” những thông cáo báo chí.

Trong khi đó, D. J. Waletzky tạo trang web “Bill Gates là quỷ Satan”, khi còn là học sinh lớp 10 tại Trung học Bronx. Vài tháng trước khi thiết kế trang web này, Waletzky đã thuyết phục cha mẹ mua một máy tính xịn cài hệ điều hành Windows NT. Và ấn tượng của Waletzky về NT không phải là bản thân hệ điều hành mà là máy tính phải tốn rất nhiều năng lượng để chạy cái hệ điều hành chết tiệt NT. Qua Internet, Waletzky biết rằng, Microsoft đã bán NT trong khi họ biết rõ hệ điều hành có nhiều lỗi kỹ thuật. Thậm chí họ còn tuyên bố với công chúng là NT rất hoàn hảo.

Waletzky còn đọc một bài báo cho biết Microsoft sẽ tính tiền bất cứ khi nào có người gọi đến nhờ giúp đỡ. “Khi tôi biết rằng, hỗ trợ kỹ thuật phải mất tới 95 USD cho một lần gọi, nhiều lúc công việc cũng chẳng có gì. Viết hệ điều hành có lỗi đã quá đáng lắm rồi, đằng này lại thu người ta 95 USD phí hỗ trợ sửa những lỗi đó, đây là hành động của kẻ bòn rút”. Mùa thu 1996, Waletzky có bài tập về tạo website. Waletzky nghĩ ngay làm trang web mang nội dung “Tôi ghét (chính khách) Newt Gingrich”. Tuy nhiên, sau đó, anh lại đọc về Gates: phần mềm máy tính đã tự do như thế nào trước khi có Gates và Microsoft làm thế nào để mua hệ điều hành với giá rẻ rồi kiếm về hàng tỉ đô la. Và một ngày sau, trong khi lang thang cùng bạn bè và than vãn hệ điều hành NT làm mình phát nhức đầu, Waletzky chợt buột miệng: “Bill Gates là quỷ Satan”.

Bây giờ, khi Waletzky gọi Quỷ Satan Gates, anh không có ý nói Gates là con quỷ mắt đỏ, mặt có nanh có sọc. Nếu bạn hỏi, Waletzky sẽ nói anh ta là người theo chủ nghĩa xã hội, không tin vào Chúa, cũng chẳng tin vào thế lực ma quỷ nào. “Kẻ khốn nạn” có lẽ là từ gần nhất với những gì Waletzky muốn nói. Kẻ đập cửa xe ăn cắp máy nghe nhạc chính là quỷ Satan. Trong công việc, những kẻ ngu dốt ăn cắp ý tưởng của người khác cũng là quỷ Satan. Và, kẻ có nhiều tiền đến mức trải thảm từ Trái đất đến Mặt trăng được 8 vòng, song vẫn móc túi 95 USD mỗi khi có người cần giúp đỡ, kẻ đó đích thực là “Chúa tể của bóng tối”.

Trên website mang ý nghĩa cộng đồng lớn này, những ngôi làng ảo ấm cúng sẽ làm nguôi cơn giận dữ của thế giới hiện thực. Waletzky chỉ là phần nhỏ trong thế giới những kẻ căm ghét Gates, song nó còn là cái gì đó hơn cả cái mà anh nói xa xôi là “cộng đồng”. Những bức thư qua lại giữa Waletzky và độc giả cho thấy, họ cảm thấy một cái gì đó hơn cả sự thích thú khi nhìn thấy một site mới, đến nỗi nhiều người còn coi nó như “Trang web chính thức thù ghét Microsoft”. Waletzky đã đăng ký vào danh sách thư điện tử “Ghét Microsoft” có địa chỉ (anti-ms@enemy.org). Thỉnh thoảng, số lượng e-mails mà Waletzky nhận được quá nhiều. Tuy nhiên, anh không xóa tên mình bởi vì “bạn có thể học được những thứ bạn không thể tìm được trong tạp chí PC Week”.

(Theo sách Những âm mưu hủy diệt Bill Gates do First News phát hành)

Bill Gates và câu chuyện bí mật trong Nhà Trắng

Washington, ngày 21/10/1997 để ứng phó với những lời buộc tội của Bộ Tư pháp, Hãng chế tạo phần mềm Microsoft tuyên bố sẽ cung cấp cho Chính phủ liên bang những chuyện trước kia họ vẫn từng “kín miệng bình”.
> Những âm mưu hủy diệt Bill Gates

Những người đại diện Microsoft đã tổ chức cuộc họp khẩn với Tổng thống Bill Clinton tại Phòng Bầu dục trong Nhà Trắng.

Nước Mỹ sẽ là một bộ phận do Microsoft sở hữu. Theo Steve Ballmer, chủ tịch Microsoft, chi tiết kế hoạch làm ăn ban đầu dự tính sẽ được đưa ra vào tháng 7 năm sau và Chính phủ liên bang sẽ thực sự có lợi “sớm nhất là vào quý 4/1999”. Phát biểu về vấn đề này, Tổng thống Bill Clinton khẳng định ông “sẵn lòng” chấp nhận giữ chức phó chủ tịch Microsoft, cùng lúc duy trì việc quản lý Chính phủ liên bang và sẽ trực tiếp báo cáo công việc cho Bill Gates.

Khi được hỏi tại sao ông lại giao toàn quyền điều hành cho Gates, Clinton chỉ mỉm cười, hàm ý coi đó như một “lòng tin”. Ông luôn cho rằng Gates có một “lý lịch xán lạn”, rằng công dân Mỹ nên “ủng hộ và đặt lòng tin” vào Gates. Được biết, với cương vị mới của mình tại Microsoft, Clinton có thể kiếm được gấp nhiều lần mức lương 200.000 USD hằng năm mà ông lĩnh từ chiếc ghế Tổng thống Mỹ.

Hai vợ chồng Bill Gates. Ảnh: Viettri.

Gates bác bỏ đề xuất di chuyển Quốc hội Mỹ tới Redmond và coi đó là một việc “ngớ ngẩn”, mặc dầu ông khẳng định rằng từ vị trí hiện nay tại tập đoàn Microsoft, ông sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn việc điều hành Chính phủ Mỹ. Gates tiếp tục nhấn mạnh rằng Thượng và Hạ viện Mỹ đương nhiên sẽ bị xóa bỏ. “Microsoft không phải là một nền dân chủ” - ông nói - “và hãy xem chúng tôi làm mọi việc êm thấm thế nào”. Đại diện Microsoft đã kết thúc cuộc họp bằng cách khẳng định rằng người dân Mỹ sẽ có thể hi vọng những mức thuế thấp hơn, sự gia tăng trong các dịch vụ của Chính phủ và sự giảm giá đối với tất cả sản phẩm của Microsoft.

Câu lạc bộ thuyền trưởng Ahab

Trở lại năm 1993, thời kỳ yên bình mà người ta có thể đọc toàn bộ tờ tạp chí mà chẳng tình cờ thấy cái tên Bill Gates đâu cả, Ray Noorda (CEO của Novell) và Gates đều cảnh báo rằng địch thủ của họ sẽ phải khóc hận. Không lâu sau, lời cảnh báo đó đã đúng.

Trụ sở của Novell tại bang Utah đã phát minh ra phương thức thông minh nhằm kết nối máy tính cá nhân riêng lẻ và nhờ đó đồng nghiệp trong cùng văn phòng có thể dùng chung máy in và file trên máy tính. Đó là đầu thập niên 1980. Kể từ đó, Novell kiếm được hàng tỉ đôla từ sản phẩm này mà Microsoft chẳng thể thâm nhập được.

Đã hai lần Microsoft tỏ ý muốn mua công ty của Noorda; song cả hai lần Gates đều phải kiếm cớ là ông ta đã thay đổi ý định, rằng như thể “tớ thèm vào”! Mọi việc không phải không có lý do. Noorda cảm thấy Gates và những kẻ thân cận tỏ ra thân thiện với Novell chỉ để tìm hiểu xem họ có thể làm gì với công ty này. Hơn nữa, Noorda vẫn có thể tỉnh bơ ăn ngon ngủ yên trước hàng lô các lời khoác lác hằng năm của Gates tại COMDEX (Buổi giới thiệu sản phẩm thương mại của các doanh nghiệp máy tính), rằng năm nay Microsoft rồi sẽ mua đứt Novell.

Trước kia, Novell từng cố giữ hòa khí với Microsoft trước bao lời nói xấu cường điệu. Cánh tay phải của Gates là Steve Ballmer, người có giọng nói sang sảng, từng nhạo báng Novell là kẻ cạnh tranh “bẩn thỉu”, chuyên bán tin tức dối trá cho báo chí. Kể từ đó, cuộc chiến bắt đầu leo thang. Trong một cuộc phỏng vấn, Noorda nói: “Thái độ của Bill Gates là sự xúc phạm đối với ngành công nghiệp cũng như với cả thế giới”. Ông ta gắn cho Gates cái tên “Thiên đường” còn Ballmer là “Kẻ ướp xác” rồi chẳng ngại ngần giải thích lý do. Gates là Thiên đường vì ông ta luôn hứa vung vít với bạn mọi điều đẹp đẽ như trên thiên đường, trong khi phía sau, Ballmer tay lăm lăm cuốc xẻng chuẩn bị đào huyệt chôn xác bạn.

Noorda tổ chức nhiều cuộc họp với giám đốc điều hành của Lotus, WordPerfect và các công ty buôn bán phần mềm khác. Báo chí miêu tả Noorda là một người đàn ông khoảng 60 tuổi khi hầu hết đồng sự của ông ta mới chỉ khoảng 30. Họ dùng những từ kính nhi viễn chi đại loại “chú, bác” hay “bố già” để nói về ông. Tuy nhiên, Microsoft lại tiết lộ rằng họ từng định đặt cho Ray Noorda cái tên “ông già đến từ địa ngục”.

Các giám đốc điều hành Microsoft chậc lưỡi kể rằng Noorda mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân. Họ chỉ biết lắc đầu quầy quậy khi nói đến sự giận dữ cuồng nộ mà Noorda đổ trút lên đầu Gates. Tội nghiệp Bill thay! - họ nói với nhau bằng vẻ mặt thông cảm và thương hại. Kinh doanh là một nhẽ nhưng nói rằng Bill không có trái tim ư? Sao lại ác mồm ác miệng như thế được. Nathan Myhrvold, trưởng bộ phận kỹ thuật của công ty và cũng là bạn thân của Gates, lúc nào cũng đem câu chuyện về con cá voi Moby-Dick (trong tác phẩm kinh điển của nhà văn Mỹ Herman Melville) ra kể trong các cuộc họp nhân viên cấp cao.

Myhrvold không thể nói chính xác điều gì khiến cuộc đời ông lại thấm đẫm chất văn học Mỹ cổ điển đến như thế song ông có thể xác định chắc chắn rằng sự vu khống của Noorda là không chấp nhận được. Tính cách tương đồng giữa Noorda và thuyền trưởng Ahab, nhân vật chính trong tác phẩm Moby-Dick, là điều mà Myhrvold muốn ám chỉ. Ahab bị mất một chân khi cố đâm con cá voi trắng khổng lồ. Ông ta có thể đổ lỗi cho vận đen hay tính khắc nghiệt của công việc, song thay vì thế, ông ta lại trút lên đầu Moby-Dick. Đáp lại sự hớn hở tột độ của gia đình Microsoft, Myhrvold long trọng tuyên bố Noorda là thành viên chính thức của câu lạc bộ mà ông ta đã thông minh xướng ra cái tên "Câu lạc bộ thuyền trưởng Ahab". Và thế là Câu lạc bộ thuyền trưởng Ahab ngày càng có nhiều thành viên mới, vinh hạnh được Nathan Myhrvold kết nạp.

Nathan Myhrvold là người béo tròn với đôi mắt xanh xám hấp háy sau đôi kính gọng thép. Bộ râu quai nón hỗn hợp đủ màu nâu, đỏ, điểm chút xám được cắt tỉa gọn và mái tóc phủ một lớp xoăn màu nâu lộn xộn đã tạo cho ông ta thần thái giống một nhà khoa học hơi khùng khùng. Năm 1986, ông ta bán một công ty (mà ông là người đồng sáng lập) cho Microsoft với giá 1,5 triệu USD. Đến năm 1998, Forbes ước tính trị giá công ty này lên tới trên 300 triệu USD.

Năm năm sau khi thành lập Câu lạc bộ thuyền trưởng Ahab, Myhrvold vẫn luôn hứng chí với sáng kiến thông minh của mình. Điểm lại danh sách hội viên Câu lạc bộ, ông ta chuyên nhái giọng và lúc nào cũng kể vài mẩu chuyện phiếm về các “hội viên”. Liệu Larry Ellison có phải là thành viên của Câu lạc bộ không nhỉ? Quá xứng đáng! - Myhrvold nói một cách hào hứng.

Thành tích Ellison cỡ nào? Ông ta có 10 tỉ USD nhưng vẫn là kẻ bại trận. Trong một e–mail, Myhrvold viết: “Các cổ đông tốt hơn nên tìm một cỗ áo quan cho Ellison”. Đó là một hình ảnh không thể quên ở gần phần kết câu chuyện Moby-Dick: chiếc xuồng cứu hộ cùng số thủy thủ còn sống sót đã đóng một chiếc quan tài chở xác Ahab về nhà.

Đối với Scott McNeatly, Philippe Kahn, Jim Manzi…, Myhrvold thích thú kể về những sai lầm của họ, rằng đó là những kẻ “hoàn toàn bị Bill ám ảnh và luôn cố huyễn hoặc bản thân rằng mình là người kế tục Bill”. Tuy nhiên, sự rạng rỡ và vui vẻ biến mất trên khuôn mặt Myhrvold khi đề cập đến Gary Kildall, người sáng lập công ty Digital Research.

Năm 1980, thời điểm mà IBM gõ cửa cả hai công ty Microsoft và Digital Research, Bill Gates mới 25 và Gary Kildall 38 tuổi. Cả hai cùng trưởng thành ở Seattle, đều là người da trắng có đầu óc toán học và bộ não khoa học siêu việt. Gary Kildall nổi tiếng là nhà khoa học được đào tạo chính quy. Ngược lại, Bill Gates là tên hacker tự học, một kẻ bỏ trường và luôn có xu hướng thương mại. Kildall là người phát minh; Gates là thiên tài bắt chước.

Sau khi lấy được tấm bằng tiến sĩ khoa học vi tính từ Đại học Washington, Kildall dạy môn khoa học vi tính tại một trong những trung tâm huấn luyện quân sự danh tiếng nhất Mỹ – Trường đào tạo hải quân ở Monterey (bang California). Trong khi Gates tự hào về vài shortcut phần mềm thông minh thì Kildall lại tỏ ý khinh thường những trò bịp trẻ con như vậy. Kildall là người có bộ râu quai nón, đẹp trai, cao lớn, gọn gàng, lịch sự và dí dỏm. Trái lại, Gates với cái đầu xù tổ quạ lại là người huênh hoang và tự cao tự đại.

Trên đường đời, họ va chạm nhau từ rất lâu nhưng mỗi lần như vậy lại càng cho thấy sự khác biệt giữa hai người. Kildall, một ông bố mẫu mực; Gates, một kẻ cù bơ lượn lờ quanh trung tâm tin học gần Đại học Washington. “Họ tương phản nhau như (diễn viên hài) Woody Allen với (diễn viên thượng thặng) Gary Cooper” – Stephen Manes và Paul Andrew đã viết như vậy trong cuốn Gates. Thời kỳ đầu, Microsoft chỉ tập trung vào ngôn ngữ máy tính; trong khi đó, Digital Research của Kildall đã bắt đầu chuyên môn hóa hệ điều hành.

Năm 1977, Gates bay tới Pacific Grove (California) để bái kiến đại sư huynh Kildall. Dù lúc đó mới 21 tuổi nhưng Gates đã rất nhạy bén, hiểu rằng cần phải liên kết để kiếm lời. Kildall đã không cắn câu. Việc Gates tập trung vào ngôn ngữ lập trình hoàn toàn ngẫu nhiên. Mọi việc bắt đầu khi một người bạn thời thơ ấu của Gates, Paul Allen đã đưa vấn đề Điện tử thông dụng lên một tạp chí. Trên trang bìa là hình chiếc máy vi tính có tên gọi là Altair 8080. Ed Roberts, chủ tịch công ty có trụ sở đặt tại Albuquerque, người bán chiếc máy trên, thừa nhận rằng chiếc máy này chẳng làm được gì ngoài việc kêu vo vo như ong vỡ tổ. “Đây là cơ hội của chúng ta” - Allen nói với Gates vào một ngày mùa đông 1975, lúc đó Gates học năm thứ hai Đại học Harvard. Hai người cùng nhau thành lập công ty. Kể từ đó, họ đặt chân vào lĩnh vực kinh doanh ngôn ngữ máy tính.

Cả hai gửi cho Ed Roberts bức thư trang trọng, nội dung đề cập dự án hứa hẹn mà họ cùng nhau tiến hành trước đó. Họ tuyên bố rằng chúng tôi có phiên bản BASIC lý tưởng phù hợp với Altair. Đương nhiên là họ đã lừa gạt và không hoàn toàn nghĩ thẳng vào vấn đề. Tám tuần tiếp theo đó, Gates và Allen thực sự sống trong phòng thí nghiệm máy tính Aiken tại Đại học Harvard, chỉ dám chợp mắt trên bàn phím. Họ nghỉ học liên tục, ăn uống thất thường với thứ thực phẩm tạp nhạp rút ra từ máy tự động. Nhiều năm sau, câu chuyện về Altair đã trở thành khoảnh khắc đáng nhớ trong lịch sử vi tính. Thực tế lại không kỳ diệu như vậy.

Bộ máy tính MITS được lắp đặt tại một nhà hàng Trung Quốc trong khu vực hoang phế Albuquerque do các câu lạc bộ múa thoát y và những kẻ xì ke điều hành. Không những Allen cầu nguyện cho chương trình BASIC Altair đem lại hiệu quả mà Roberts và nhân viên kỹ thuật của ông ta cũng hy vọng rằng máy của họ sẽ chạy tốt. Hai bên đưa ra một thỏa thuận. Roberts trả cho Gates và Allen trước 3.000 USD, sau đó hai người sẽ được chia từ 30-60 USD (phụ thuộc từng phiên bản) cho mỗi bản copy chương trình mà Roberts bán được.

Trở lại Cambridge, Gates đã gặt hái thành công bước đầu nhưng giới chức sắc Harvard hầu như không hài lòng. Giám đốc Trung tâm vi tính tại đại học này, Thomas Cheatham, từng là thầy giáo của Gates trong vài khóa học, đã đưa ra những chỉ trích đại loại “thật ghê tởm”, “(Bill Gates) không phải là kẻ dễ mến, hắn là một cái nhọt ở mông!”. Mùa đông năm đó, Cheatham nhận ra rằng Gates đã ngốn hàng giờ ở hệ thống vi tính trong trường. Qua thông tin mật, Cheatham còn biết Gates đã đưa bạn - không phải sinh viên Harvard – đến làm việc trong trung tâm vi tính của trường về một dự án thương mại. Đại học Harvard chính thức điều tra vụ này nhưng cuối cùng Gates chỉ bị khiển trách vì tội tự ý đưa người bên ngoài vào. Thật nhục nhã! Việc Gates tự do sử dụng máy vi tính của trường đã làm thành tiền lệ cho đám sinh viên hậu bối…

Một tháng sau khi hoàn thành dự án Altair BASIC, Paul Allen đến làm việc cho Ed Roberts với tư cách phó chủ tịch phụ trách phần mềm. Cùng thời gian đó, Gates tiếp tục theo học hai năm nữa tại Harvard, tiếp tục tranh cãi với cha mẹ về tương lai mình trong khi vẫn vừa học vừa làm tại nhà trọ Sand & Sage ở Albuquerque. Thậm chí trước khi rời Harvard, Gates đã gây thù chuốc oán trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân mới mẻ này. Vấn đề chính là tiền bạc. Ed Roberts kiếm được hàng triệu đô la nhờ bán máy còn Gates và Allen chỉ có thể kiếm một hoặc hai nghìn đô la một tháng từ tiền bản quyền.

Người ta chỉ trả tiền để mua phần cứng vì họ cần phải mua chứ họ không bao giờ chịu chi tiền cho phần mềm vì họ có thể copy miễn phí từ bạn bè và tiết kiệm được 75 USD mà Roberts đã tính phí cho chương trình Altair BASIC. Trước đó, thực ra không ai phải trả tiền phần mềm cả. Khi Gates biết được sự thật này, ông ta đã nổi đóa rồi viết một bức thư ngỏ với lời lẽ hết sức cảm động đưa lên vài tờ báo. Bức thư vận dụng mọi tinh hoa học vấn sinh viên năm thứ hai của Bill Gates.

Cùng Allen, Bill Gates rõ ràng đáng được bồi thường tương xứng với công sức mình nhưng cách trình bày của Gates thật sống sượng và đầy yếu tố kích động. Ông ta nói với độc giả rằng “hầu hết các vị đang ăn cắp phần mềm của tôi”. Trong trường hợp này, ông ta không nhắc đến ý chính mà gọi tất cả họ là “những tên trộm” ở đoạn kế tiếp. Sau đó, ông ta tự bảo vệ mình và đòi bồi thường một cách thật lố bịch khi lâm ly kể lể rằng mình và Allen đã dùng hơn 40.000 USD trong thời gian ở máy tính để phát triển Altair BASIC.

Ông ta không hề ngại ngần khi nhắc đến tiền - lạc lõng với độ tuổi còn quá trẻ - và ông ta vẫn sẽ tiếp tục giai điệu tiền trong suốt thời gian dài sau này. Ông ta thậm chí không e dè nói đến ước muốn kiếm thật nhiều tiền trong khả năng có thể. Sự nực cười và mâu thuẫn trong bức thư của Bill Gates đã không thu hút được độc giả. Người ta thậm chí đồn đại rằng Gates đã sao chép toàn bộ trong hệ thống máy tính Đại học Harvard. Họ cũng phản ứng lại bằng cách gửi vài bức thư cạnh khóe tương đương đến cho Gates.

Năm 1973, Gary Kildall làm tư vấn cho Intel. Tuy nhiên, ước mơ của ông ta khiêm tốn hơn, giống như việc mua cái vòng xuyến cho trẻ con hoặc sửa chữa vớ vẩn quanh nhà. Cuộc sống một giáo sư ở Monterey được tặng thưởng nhưng chẳng đáng là bao. Kildall chứ không phải Gates, là người luôn tuân theo quy tắc và tình cờ trở thành nhà kinh doanh. Làm việc cho Intel khiến Kildall đi đi về về hàng ngày trên xa lộ và bắt đầu kiệt sức. Do đó, ông đã lắp một chiếc máy tính nhỏ để có thể làm việc tại nhà. Để tăng hiệu quả, ông viết một chương trình giúp hỗ trợ lưu trữ file về những phát minh ông còn ấp ủ và nhờ vậy ông đã tạo ra CP/M và một công ty tên là Intergalactic Digital Research theo tinh thần của thời đại. Thật đáng nể, ông ta đã viết CP/M trong vòng vài tuần.

Xét đến một hệ điều hành như nói đến hệ thống điện trong nhà. Thực ra tự nó không làm được gì nhiều nhưng nếu không có nó thì chúng ta không thể sử dụng máy hút bụi, nghe giàn máy âm thanh, không xem được đồng hồ điện tử hoặc tivi. Xét đến các thiết bị ứng dụng công nghệ (chương trình xử lý văn bản, trò chơi điện tử…) cũng giống như nói đến thiết bị cắm vào ổ điện. Ngày nay, hệ điều hành (OS) bao gồm mọi thứ, từ cái bồn rửa trong bếp, máy tính, đồng hồ, hệ thống xử lý văn bản, trò chơi điện tử đến trang web.

Nhưng khi quay trở lại cuối thập niên 1970 và đầu 1980, hệ điều hành đúng là một cuộc cách mạng. Hệ điều hành là trung gian giữa bàn phím và màn hình vi tính. Do đó, số người mua hoặc mượn CP/M của Kildall nhiều đến nỗi CP/M bắt đầu trở thành tiêu chuẩn mà mọi người sử dụng vi tính đều đi theo. Cho đến thời điểm hai nhân viên IBM đến thảo luận về việc sử dụng hệ điều hành trên một số máy tính cá nhân mới tuyệt mật của IBM, Kildall đã kiếm được hàng triệu đô la. Rất nhiều truyền tụng xung quanh cuộc đàm phán ngắn ngủi giữa Kildall và IBM.

Kẻ có tiền và kẻ có đầu óc đã mời nhau ăn những bữa tiệc khai vị bằng trứng chim cút nhúng nước sốt thịt bò và kết thúc bằng ly rượu vang nho Taylor Fladgate. Ở thuở ban đầu của máy tính cá nhân, khi kiếm được quá nhiều tiền, Kildall đã từ chối lời mời từ IBM, có thể vì quá kiêu ngạo. Những người thuật chuyện luôn lắc đầu trước sự ngớ ngẩn đó mỗi khi nhắc lại. Điều thú vị là chính Bill Gates đã làm trung gian trong vụ IBM gặp Kildall.

Đó là thời gian mà Gates thường dậy vào buổi sáng, mặc quần áo mà không cần tắm, chui áo len qua đầu rồi xỏ chân vào chiếc quần jeans, đứng trong bếp ngấu nghiến hết bát ngũ cốc trước khi đi lượn lờ trên chiếc Mercedes nâu. Dường như ông ta đã nhiều lần quên không đánh răng nên chuyện ngụ ngôn về hơi thở nồng nặc mùi lạ của Gates đã ra đời từ đó.

Năm 1980, khi 24 tuổi, Bill Gates đã bay vòng quanh thế giới mà không hề mệt mỏi, đến châu Âu, Nhật cũng như bất kỳ thành phố nào ở Mỹ, nơi có các nhà sản xuất máy vi tính quan tâm đến việc cấp phép cho sản phẩm của Microsoft. Trông Gates luôn mệt mỏi bơ phờ, đầu không chải, râu không cạo. Tuy nhiên, khi đến gõ cửa IBM, Gates đã vận bộ com-lê, mái tóc dài bờm xờm được ốp lại, dù không hợp lắm nhưng tối thiểu cũng cho thấy nỗ lực làm cho mình trông được chỉnh tề. Nếu có thể yêu được một tập thể, Gates hẳn phải yêu IBM, được biết đến nhiều hơn với thế hệ siêu máy tính Big Blue.

Trước khi được quan chức IBM đề nghị gặp gỡ, Gates đã tìm hiểu rất kỹ về công ty này. Đối với Gates, người thành lập công ty IBM, “đại đế” Thomas Watson, gần giống như một anh hùng siêu quần. Cuốn sách kinh doanh mà Gates yêu thích chỉ có thể là quyển The IBM Way của Watson. Trong cuộc gặp, Gates đóng vai một kẻ xảo trá đến nỗi mà lời nói của ông ta đã xuất hiện không lâu hơn các dòng trên màn hình vi tính sau khi tắt máy. IBM muốn có CP/M chứ không phải Kildall. Đối với IBM, việc giữ bí mật là tuyệt đối quan trọng. Đó còn là cả vấn đề văn hóa. Ngành công nghiệp vi tính đã tiến hành cải cách từ chiếc cổ áo ủi cứng cài khuy của nhân viên IBM đến chiếc áo sơ mi dính vết bánh pizza và mái tóc xơ xác của nhân viên Microsoft. Nhưng dù cho nhân viên hai công ty mặc đồ cotton hay flannel xám thì IBM và Microsoft cũng chẳng khác gì nhau.

IBM đủ hùng mạnh để thu hút được hiền tài và lập nên một nhóm cao thủ. Chủ tịch IBM còn biết mẹ của Gates vì cả hai từng làm việc cho tổ chức United Way. Gates có phần do dự khi IBM đề nghị xem xét việc mua lại bản quyền CB/M của Kildall. Thay vào đó, Gates đề xuất giúp IBM thiết lập cuộc hẹn với Kildall tại Pacific Grove…

Trong cùng thời gian, Paul Allen biết một công ty nhỏ có tên là Seattle Computer chuyên bán QDOS dành cho hệ điều hành Quick & Dirty, được Tim Paterson soạn. Paterson cho biết ông ta viết QDOC bằng sách hướng dẫn CP/M. Thỏa thuận mà Microsoft đề nghị với Seattle Computer tạo điều kiện cho Microsoft có quyền phân phối QDOS tới hàng loạt người sử dụng. Microsoft đã bỏ chữ Q và đặt lại tên hệ điều hành là DOS.

Không hiểu sao tin tức về vụ DOS bị tiết lộ và bỗng nhiên các nhà sản xuất máy vi tính trên toàn thế giới đã điện tới trụ sở Microsoft. Mục tiêu của Gates là mua toàn bộ bản quyền QDOS trước khi IBM tung ra máy tính cá nhân với hệ điều hành mới; và tất nhiên trước khi Seattle Computer có thể đánh giá toàn bộ giá trị của hệ điều hành mà họ đang có. Seattle đề nghị bán toàn bộ bản quyền hệ điều hành cho Microsoft với giá 150.000 USD nhưng Ballmer đã kỳ kèo xuống còn 75.000 USD. Kildall bắt đầu làm ầm ĩ bằng việc chỉ ra những điểm tương đồng giữa CP/M và DOS.

Các yếu tố khác, ngoài vấn đề giá cả, cũng gây ảnh hưởng đến Kildall. Những kẻ bắt chước luôn hứng thú với lợi ích khi nghiên cứu nhược điểm người đi trước. Cả Seattle và Microsoft đã cải tiến sản phẩm dựa trên phát minh của Kildall. Phần mềm mà IBM bán để sử dụng cho máy tính cá nhân chính là phần mềm tương thích với DOS chứ không tương thích CP/M.

Có thể cuộc sống của Kildall không sôi động vì ông không có nhiều tham vọng hoặc ít nhất cũng chỉ mơ đến việc đổi mới trong thế giới vi tính. Người đàn ông này, được một người bạn miêu tả là “đứa trẻ lớn nhất mà tôi từng biết”, là người chỉ coi việc kinh doanh máy tính như món đồ chơi trong vô số loại đồ chơi. Gates sẵn sàng làm bất kỳ việc gì mà khách hàng cần; ngược lại, Kildall là nhà khoa học chỉ muốn bảo vệ sự thuần khiết của phát minh tránh khỏi những bộ óc buôn bán bỉ lậu.

Cựu nhân viên Digital Reasearch cho biết Kildall không hề thích quản lý công ty 30 nhân viên, không khao khát được sống trong ngôi nhà theo phong cách Victoria tráng lệ, không mong muốn cổ phiếu của công ty được niêm yết tại đấu trường Wall Street. Ông ta cũng không muốn thuê giám đốc điều hành vì sợ người ngoài làm hỏng không khí gia đình trong Digital Research. Mẹ của Kildall, bà Emma, kể: “Hắn rất ngây thơ và thờ ơ với mọi thứ. Hắn không có khiếu kinh doanh kiểu giết người”.

Rõ ràng là Gates lại có năng khiếu này. Khi học môn toán tại Harvard, Gates đã hiểu luật chơi: với mọi đối thủ, bạn phải tự tìm cách riêng để chiến thắng. Khi Gates biết rằng Kildall dự định ký hợp đồng cài đặt CP/M cho máy tính Hewlett-Packard, ngay hôm sau, ông ta đã có mặt tại Palo Alto để cổ động Hewlett ký hợp đồng với mình. Nhìn chung, nhân viên kỹ thuật Hewlett đều thích CP/M hơn nhưng Gates đã thuyết phục được ban điều hành Hewlett chọn DOS. J

ames Wallace và Jim Erickson, trong cuốn tiểu sử về Gates nhan đề Hard Drive, đã kể lại cuộc đàm phán năm 1981 giữa Gates và một giám đốc bậc trung có tên là Richard Leeds. Cao trào câu chuyện là lúc Gates đấm vào lòng bàn tay mình và cảnh cáo: “Chúng tôi sẽ đẩy Digital Research ra ngoài vụ kinh doanh này!”. Ed Curry, người hiểu Gates rất rõ từ những ngày ở Albuquerque, cho biết: “Đó là chiến thuật của Bill: phải đánh tan mọi người. Hoặc nâng lên hoặc dập họ không thương tiếc, như giết một con chí mén!”.

Ước mơ tiếp theo của Kildall là sản phẩm Logo, một ngôn ngữ vi tính đơn giản đến mức học sinh trung học cũng có thể sử dụng. Nhưng một lần nữa, Kildall lại thua Gates. Sản phẩm cạnh tranh với Logo của Microsoft là BASIC đã có được lợi thế nhờ sự hỗ trợ tiếp thị của IBM. Kildall sau này đã đấm vào ngực và thốt lên: “Bây giờ tôi mới hiểu rằng máy vi tính được làm để kiếm tiền chứ không dành cho trí tuệ”. Trong thực tế, Kildall chẳng rút kinh nghiệm gì cả. Kildall cũng từng ấp ủ khả năng truyền thông đa phương tiện.

Ông đã thành lập một công ty tên Knowledge-Set chuyên nghiên cứu cài đặt bách khoa toàn thư vào CD–ROM. Thật ngớ ngẩn, ông ta lại hớ hênh kể với Gates về vụ CD–ROM toàn thư. Sau đó, ông được mời phát biểu chính tại một hội thảo về CD–ROM do Microsoft tài trợ. Bạn bè cảnh cáo Kildall rằng coi chừng ông là trò chơi trong tay Gates nhưng Kildall không nghĩ như vậy. Ông ta còn phân phát bài diễn văn mà không hề nhận ra rằng Microsoft đã lợi dụng lòng tin của ông để tạo nên dự án CD–ROM toàn thư ngay từ trong trứng nước. Dĩ nhiên, bây giờ ai cũng biết bộ CD–ROM Encarta của Microsoft đã trở thành bộ bách khoa toàn thư bán chạy nhất thế giới.

Tầm cỡ của Gates ngày càng lớn. Năm 1981, chuyên san Fortune đăng hình Gates và Allen với tiêu đề là người tiên phong phát triển kỹ thuật số. Còn Kildall chỉ được nhắc đến thoáng qua. Vài năm sau, Gates phát triển IBM–PC vùn vụt và bài viết về Bill Gates xuất hiện liên tục trên Money và Time. Tờ Business Week gọi ông ta là “cậu bé phần mềm”.

Tờ People đưa Gates (cùng Ronald Reagan) vào danh sách “25 người hấp dẫn nhất” vào năm 1983. Đến lúc đó, ngoại hình Gates tiếp tục không ổn, vẫn với mái tóc bù xù không chải kèm theo cái khuỷu tay chống vào mạng sườn khinh đời. Có lẽ điều làm Kildall khó chịu nhất là việc các tác giả bài báo thường khen Gates nhạy bén về công nghệ hơn kinh doanh. Những gì mà Gates và hai người bạn đã làm được tại Trung tâm vi tính Đại học Harvard thật ấn tượng nhưng không thể so với thành tựu của Kildall hoặc của hàng loạt người đi trước. Và rồi, thật mỉa mai, sau này Gates sẽ luôn ra oai với Kildall mọi lúc mọi nơi: khi cùng tham dự hội thảo máy vi tính tổ chức tại Khu nghỉ mát Playboy ở Wisconsin năm 1981 hay bất kỳ lúc nào có cơ hội.

David Bunnell, người phụ trách kỹ thuật cho Ed Roberts trước khi trở thành nhà xuất bản sách công nghệ vi tính, kể lại: “Đương nhiên Bill rất hả hê. Đó là một phần để mở mang trí óc”! Tuy vậy, Kildall vẫn bất chấp Gates. Ông ta nói với mọi người rằng khi thấy DOS, ông ta như thấy tâm trí của mình. Kildall tuyên bố rằng Gates ăn theo ông, lợi dụng ý tưởng mà ông ấp ủ. Đầu thập niên 1990, ông bắt đầu viết cuốn Computer Chronicles, nhằm xóa bỏ những suy nghĩ hoang tưởng về thời kỳ đầu của ngành công nghiệp vi tính. Theo một số người từng đọc bản thảo chưa xuất bản, cuốn sách chủ yếu bác bỏ sự hoang tưởng của Bill Gates.

Gary Kildall qua đời vào tháng 7–1994 vì bị một cú đấm vào đầu trong một quán bar ở Monterey. Những gì thực sự xảy ra vào buổi tối hôm đó chẳng ai biết chắc, chỉ nghe rằng hôm đó Kildall mặc chiếc áo gi-lê bằng da màu đen với logo Harley–Davidson và có tham gia một vụ ẩu đả. Hai ngày sau, ông ta chết vì bị xuất huyết nội. Tờ Los Angeles Times, viết về cái chết của nạn nhân, đã đăng tiêu đề “Gary Kildall: người có hệ thống phần mềm thất bại về tay đối thủ MS–DOS”. Năm đó, Kildall 52 tuổi. Kildall gần giống một thiên thần đại diện cho những gì tốt đẹp và thuần khiết trên thế giới này – phóng viên Wall Street Journal, Gregg Zachary viết – “Ông kiên trì đến cùng mục tiêu của mình”.

Khi chết, ông ta đã có tất cả. Một chiếc Learjet, tàu, xe gắn máy, ba chiếc Lamborghini, những cuộc đua ô tô ở Monaco, những chiếc xe hơi kiểu cổ điển, một ngôi nhà ở bờ biển Pebble và một ngôi nhà khác ở Austin (bang Texas) – dù người đàn ông này chỉ muốn kiếm sống dựa vào máy vi tính và coi thành công về mặt tài chính như là tai họa chứ không phải là của trời cho. Ông ta uống rượu như sinh viên đại học năm thứ nhất hoặc như người cố làm dịu cơn khát. Một người bạn miêu tả ông là “kẻ thất bại”. Người khác nói rằng việc giàu lên nhanh chóng “đã làm ông mất phương hướng”.

Trong khi đó, ngay từ lúc khởi nghiệp, Gates có mục đích rõ ràng là kinh doanh, chứ không chỉ kiếm sống. Năm 19 tuổi, Gates đã viết trong bức thư mắng nhiếc những người sử dụng bản copy BASIC lậu: “Chẳng gì có thể làm cho tôi hài lòng bằng việc có thể thuê 10 lập trình viên và tấn công vào thị trường máy vi tính bằng phần mềm hữu ích”. Và ông ta đã làm như vậy. Gates không chỉ là kẻ cơ hội, bán những thứ mà trước đây được trao tay miễn phí tại trường đại học, mà còn là người vận hành một dây chuyền bán hàng trên toàn quốc...

(Theo First News)



Những âm mưu hủy diệt Bill Gates

Đang là thần tượng của không ít người nhưng Bill Gates cũng là kẻ thù không đội trời chung của một số khác. Nhiều người xem ông là anh hùng mã thượng, nhưng cũng có ý kiến xem Gates “chỉ là một kẻ gian hùng, khôn lanh và quỷ quyệt”.
> Những tổng giám đốc rơi vào 'tầm ngắm'

Đã có nhiều lời khen tặng khâm phục về một thiên tài mẫu mực, đam mê công việc và bản lĩnh thương trường, nhưng cũng không ít lời chỉ trích “hắn ta (Gates) thực sự là một gã huênh hoang, ngang tàng, nguy hiểm và vô nguyên tắc”. Gates được xem là một tấm gương của một con người đại diện cho trí tuệ, khát vọng và ước mơ, nhưng cũng từng bị lăng mạ là “một kẻ láu cá, cơ hội không hơn không kém và tột cùng tham lam”...

Ngày 4/2/1998, trong chuyến sang Brussels dự hội nghị với giới chức Liên minh châu Âu, nguyên một ổ bánh kem to tướng đã bay thẳng vào mặt Bill Gates từ tay một người Bỉ tên Noel Godin. Sự tích “bánh kem tặng Gates” đó chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi những sự kiện, những “thích khách”, những âm mưu và những tổ chức dài dằng dặc luôn sẵn sàng tư thế nghiền nát Bill Gates cùng tập đoàn phần mềm Microsoft - vì ganh tỵ, vì mặc cảm thất bại và vì thèm khát vị trí độc tôn.

Bill Gates giữ vị trí người giàu nhất thế giới trong 13 năm liền. Ảnh: gizmodo.

Trong khi gần một nửa thế giới viết thánh ca ca ngợi Bill Gates, thì gần một nửa còn lại cũng nóng lòng chuẩn bị giấy bút soạn điếu văn Bill Gates trong sung sướng, hả hê. Khi một bài báo ca ngợi Bill Gates xuất hiện, gần như một bài báo khác công kích, nguyền rủa Bill Gates cũng được ra mắt.

Đã có khoảng 79.500 quyển sách trên thế giới viết về Bill Gates (theo số liệu thống kê của Amazon.com ngày 13/10/2004). Và đến nay, “con ruồi” ngoại hạng Bill Gates (như tên khoa học Eristalis gatesi mà giới côn trùng học lấy tên ông đặt cho một loài ruồi hoang) vẫn đậu dai dẳng ở vị trí cao nhất trên ổ bánh kem to và ngon lành nhất của vương quốc công nghệ phần mềm, liên tục hơn một thập kỷ qua.

Chuyên san kinh tế Forbes trong ấn bản ngày 11/10/2004 vẫn xếp Bill Gates đứng đầu 400 người Mỹ giàu nhất Mỹ với tài sản ròng 48 tỷ USD (không kể giá trị cổ phiếu) - vị trí mà liên tục hơn mười năm qua, "con ruồi" Bill Gates chẳng chịu bay đi đâu cả. Hơn một thập niên qua, người ta vẫn liên tục ca tụng Bill Gates cũng như nguyền rủa ông, dùng phần mềm Microsoft Word của ông để viết những bài chỉ trích cay độc và xỉa xói Gates, và họ cũng liên lạc nhau trên các diễn đàn chống Gates bằng công cụ Microsoft Explorer hoặc Microsoft Outlook Express của Gates.

Gates ra tòa, Gates bị phạt, phần mềm của Gates bị lỗi, Gates có khả năng bị thua lỗ..., nhiều kẻ chắc chắn sẽ vỗ tay ăn mừng và cụng champagne côm cốp, lòng vui như mở cờ khi khai thác, nghe những thông tin đại loại như vậy.

Một cuộc chiến kéo dài mà tất cả mọi giới đều vào cuộc, từ những cá nhân riêng lẻ đến các tập đoàn khổng lồ, từ những “điệp viên săn tin” đến các hệ thống truyền thông - báo chí khổng lồ, từ các luật sư trứ danh cho đến tối cao pháp viện, từ các ông chủ tỷ phú đến các đảng phái, giới chức cầm quyền nước Mỹ. Tất cả các thế lực liên kết với nhau, tạo nên một cuộc chiến đẳng cấp trí tuệ, từ những xung đột âm thầm đến những cuộc đối đầu trực diện một mất một còn, từ thương thuyết đe dọa đến tòa án, từ vận động hành lang, mua chuộc đến công khai lật tẩy, công kích...

Thế nhưng, cho đến hiện nay Gates vẫn là Gates, và Microsoft vẫn là Microsoft. Chưa ai có thể lật ngã Bill Gates, trong khi cuộc chiến chống Gates không hề là cuộc chiến của châu chấu đá xe. Tất cả các kẻ thù của Bill Gates đều là những đối thủ khổng lồ, sừng sỏ, có nanh có nọc. Thế nhưng họ vẫn thua, vẫn bị hạ đo ván bởi cặp găng lì đòn, thiên biến vạn hóa, cùng tư duy và tầm nhìn đặc biệt của Gates. Những đối thủ nặng ký của Gates từng hung hăng trên võ đài với Gates đã phải phải quy phục như Netscape, Oracle, IBM, Sun...

Vấn đề ở chỗ, như những gì thuật lại trong The Plots to Get Bill Gates – An Investigation of the World’s Richest Man and the People Who Hate Him của Gary Rivlin, liên minh chống Gates trong thực tế chỉ là một liên minh ganh ăn ghét ở, đầy mưu mô và thủ đoạn chỉ chực hạ gục Bill Gates để thiết lập lại “trật tự mới” cho thế giới công nghiệp phần mềm. "Trật tự mới" này có thể hiểu là những cuộc đại chiến tiếp theo với mục tiêu giành chiếc ngai “sẽ bỏ trống” của Microsoft. Do bản chất như vậy nên chẳng trách sao những âm mưu bóp cổ Bill Gates chưa bao giờ thành công.

Sẽ còn nhiều âm mưu, kế hoạch khác nữa để công kích, để phá hoại và để mong khai tử ông vua phần mềm đặc biệt này. Đó cũng chính là những gì sẽ được kể trong cuốn sách "Những âm mưu hủy diệt Bill Gates" do Công ty First News phát hành.

Sau 13 năm ngự trị ở đỉnh cao danh sách những người giàu nhất thế giới do Forbes, năm 2007, Bill Gates lùi xuống hàng thứ ba, mất ngôi đầu về tay tài phiệt Warren Buffett.

Với tài sản 58 tỷ USD, cựu sinh viên Đại học Havard - Bill Gate nhà sáng lập tập đoàn Microsoft, không còn là người giàu nhất thế giới. Giá cổ phiếu của Microsoft đã giảm 15% sau khi hãng không thuyết phục được Yahoo sáp nhập để đánh bại Google trong cuộc chiến về thị phần trên Internet. Gates chuẩn bị từ bỏ việc tham gia công việc hằng ngày của tập đoàn do ông đồng sáng lập 33 năm trước và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động từ thiện. Quỹ từ thiện Bill &Melinda Gates Foundation của ông và vợ đã đóng góp tới 38,7 tỷ USD cho các hoạt động nhân đạo.

(Theo First News)

Những tổng giám đốc rơi vào 'tầm ngắm'


Đầu những năm 2000, toàn nhân loại chứng kiến những chấn động mạnh mẽ trong giới doanh nghiệp và trên các thị trường tài chính ở nước Mỹ, làm lung lay niềm tin của công chúng đối với nhiều tập đoàn quan trọng của nước này.
> Ông vua bán lẻ tại Mỹ

Ông Michael Dell.
Ảnh: Linternaute.

Đây là giai đoạn chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng trên thị trường chứng khoán Mỹ, đánh dấu sự gia tăng liên tục trong gần hai thập kỷ. Nếu như tại thời điểm mở cửa thị trường vào năm 1982, chỉ số công nghiệp Dow Jones mới quanh quẩn ở mức 8.000 điểm thì sau đó đã vượt qua các ngưỡng 10.000 và 11.000 điểm. Khi đó, các chuyên gia thậm chí dự báo rằng trong một tương lai không xa, chỉ số này còn có thể tăng lên tới mức 30.000 điểm. Tuy nhiên, kỷ lục tăng trưởng ngoạn mục lại thuộc về chỉ số công nghiệp nặng NASDAQ, với mức tăng chóng mặt lên tới 5.000 điểm. Tập đoàn này đã có phần hơi kiêu căng khi tự coi mình là chỉ số chứng khoán của thế kỷ tới.

Sự tăng trưởng ấn tượng của thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động đầu tư của công chúng. Người ta đua nhau rút những khoản tiết kiệm hưu trí để dành cho những kế hoạch đầu tư sinh lợi khác. Chính xu thế này càng góp phần thúc đẩy hơn nữa mức tăng trưởng nói trên. Nếu cách đây vài thập kỷ, chỉ có một tỷ lệ phần trăm rất nhỏ người Mỹ mua chứng khoán hay cổ phiếu cá nhân thông qua các quỹ tương hỗ thì hiện tại có tới xấp xỉ 60% hộ gia đình Mỹ tham gia vào cuộc chơi của những con số này.

Các tin bài liên quan

Giả sử ngày càng nhiều người dân có ngày càng nhiều tài sản trên thị trường chứng khoán thì mọi người đều được lợi. Theo lời Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenpan, chính “hiệu ứng giàu có” này đã chi phối người dân Mỹ: “Chúng ta (người dân Mỹ) cảm thấy mình giàu có hơn và do đó tiêu nhiều tiền hơn, nhờ vậy nền kinh tế sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Cái gọi là nền kinh tế mới đó hứa hẹn sẽ có nhiều người giàu hơn nữa trong những năm tiếp theo”.

Ông Jack Welch.
Ảnh: businessweek.

Nếu như nhà sử học nổi tiếng Frederick Lewis Allen từng ví những chấn động kinh tế trong những năm 1920 như một “cuộc nổi dậy của giới doanh nghiệp”, thì giai đoạn cuối những năm 1980 và 1990 có thể coi là “cuộc nổi dậy lần thứ 2”. Kinh doanh chiếm vị trí đầu bảng trong số các ngành nghề và những cái tên như Bill Gates, người đứng đầu Microsoft hay Jack Welch, ông trùm của GE đã trở thành hình mẫu lý tưởng, có khi là thần tượng, trong mắt công chúng.

Mùa hè năm 2000, một nhà xuất bản đã bỏ ra tới 7 triệu đôla để được quyền xuất bản cuốn hồi ký của Jack Welch. Đây là số tiền kỷ lục đối với bản quyền một cuốn sách kinh doanh, và xấp xỉ bằng tiền mua bản quyền sách hồi ký của những vĩ nhân. Tính đến thời điểm đó, tiền mua bản quyền cuốn sách của Jack Welch chỉ đứng sau cuốn hồi ký của Giáo hoàng. Về sau, kỷ lục này chỉ bị vượt qua bởi số tiền bản quyền trả cho hai cuốn hồi ký của vợ chồng cựu Tổng thống Mỹ Clinton.

Đó là thời kỳ sôi động trong giới doanh nghiệp Mỹ và gần như ai cũng bị cuốn theo sức hút của thời cuộc. Hàng loạt tạp chí kinh doanh và tài chính mới ra đời và được bày bán nhan nhản trên khắp các sạp báo. Nhiều đài truyền hình cáp thậm chí còn dành cả một kênh riêng chuyên về thông tin tài chính thừa nhận rằng họ đánh giá rất cao những chương trình này.

Cựu tổng giám đốc IBM - Lou Gerstner
Ảnh: i.a.cnn.

Nếu như trước đây, những vị giám đốc các quỹ tương hỗ dù rất thành đạt nhưng cũng chỉ biết miệt mài làm việc trong bốn bức tường văn phòng và hầu như không ai chú ý đến, thì giờ đây, họ trở nên nổi tiếng chẳng khác gì những ngôi sao nhạc Pop. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả, những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời kinh doanh chính là những vị Tổng giám đốc cao cấp. Chân dung của họ xuất hiện trên trang bìa hàng loạt cuốn sách, báo và tạp chí, với mỗi lời nói và cử chỉ đều chứa đựng sức nặng, đôi khi mang tính quyết định, đối với những biến động hàng ngày trên thị trường.

Trong hai năm 1997 và 1999, Tạp chí Time đều chọn một vị Tổng giám đốc làm “Nhân vật của năm”, lần lượt các cái tên Andy Grove, Tổng giám đốc Intel và Jeff Bezos, Tổng giám đốc Amazon được điểm mặt. Nếu như trước đây, danh hiệu này thường thuộc về những nhân vật chóp bu chính trị hoặc những siêu sao, thì giờ đây đến lượt những doanh nhân và những vị tổng giám đốc điều hành nhận được tước hiệu danh giá này.

Nhưng “ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Một số người mà công luận đã từng ngợi ca, trong đó có Andy Grove tỏ ra thực sự có tầm nhìn và ảnh hưởng đúng tới công chúng. Tuy nhiên, không phải ông chủ tập đoàn nào cũng có ảnh hưởng như vậy. Cuối năm 2001, đại đa số các công ty từng rất có giá trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã sụp đổ và phá sản, tạo nên cú sốc lớn nhất trong lịch sử trên tất cả các thị trường tài chính. Chỉ số NASDAQ sau 3 năm liên tục tăng trưởng ở mức kỷ lục đã giảm từ mức hơn 5.000 điểm vào tháng 3/2000 xuống dưới 1.200 điểm vào mùa thu năm 2002.

Andy Grove - cựu tổng giám đốc Intel.
Ảnh: viewimages.

Theo lẽ thường, khi nhìn lại quá khứ, mọi thứ đều trở nên rất rõ ràng, do đó, vào thời điểm năm 2003, không có gì khó khăn để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về giai đoạn tăng trưởng kỳ lạ này trong lịch sử kinh doanh của Mỹ. Điều đáng ngạc nhiên là trong số này, có rất ít những bài học mới. Chẳng hạn như bài học về việc “giá cổ phiếu tăng chưa phải là thời cơ kinh doanh tốt”. Một môi trường kinh doanh vững vàng đòi hỏi một mô hình có khả năng tạo ra các nguồn doanh thu quy mô và bền vững. Nguyên lý này đã được Carnegie và Morgan chứng minh trong thời đại của mình, và đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Sự sụp đổ trên thị trường chứng khoán của nền kinh tế mới đã mang lại những dư chấn sâu rộng. Chỉ số NASDAQ sụt giá thê thảm đã đẩy hàng nghìn doanh nghiệp tới bờ vực phá sản. Nó cũng cướp đi hàng nghìn tỷ đôla trị giá cổ phiếu, lấy đi những món tiền dành dụm của hàng triệu nhà đầu tư cá nhân. Tình trạng này xảy ra không chỉ ở Mỹ mà còn ở châu Âu và châu Á, thậm chí những nơi này còn bị ảnh hưởng nặng nề hơn. Và đây chỉ là đòn mở đầu cho hàng loạt đòn nặng nề khác đánh vào giới công chúng tham gia đầu tư, vốn vẫn chưa hết bàng hoàng trước sự sụp đổ của thị trường chứng khoán.

Một câu nói khá phổ biến là "tổ chức là kẻ thù của cá nhân, và trong số những kẻ thù đó, tổ chức kinh tế chính là kẻ thù không đội trời chung đáng gờm nhất". Câu nói trên thực tế đã xuất hiện trên các mặt báo của tờ Fortune từ cách đây hơn bốn mươi năm. Vào thời điểm những năm 1990, hàng loạt các vụ bê bối trong giới doanh nghiệp Mỹ liên tiếp bị phanh phui. Hình ảnh của cả tập đoàn và ban lãnh đạo bị phương hại nặng nề.

Bill Gates - Đồng sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Microsoft.
Ảnh: wikimedia.

Những công ty như Enron, Global Crossing, Tyco, Adelphia, và WorldCome đã trở thành những biểu tượng tội lỗi, và sự sụp đổ của chúng thường kéo theo nó danh tiếng của những nhân vật đứng đầu trong công ty. Vào tháng 6 năm 2002, tờ Thời báo New York đã nổ phát súng đầu tiên vào hình tượng Tổng giám đốc với dòng tít trên trang nhất “Vị Tổng giám đốc điều hành đầy quyền uy đột nhiên rơi vào tầm ngắm”.

Vào tháng 12/2002, tờ U.S. News & World Report gán cho Dennis Kozlowski, cựu Tổng giám đốc của Tyco biệt danh “Nhân vật xấu xa của năm” do “thành tích” hội tụ đầy đủ những điều nhơ bẩn nhất của giới doanh nghiệp công ty. Người ta cáo buộc Kozlowski, vốn đầy tai tiếng trong vụ bỏ 6.000 đôla để mua một chiếc màn trong phòng tắm, đã biển thủ 600 triệu đôla từ két bạc của Tyco. Thậm chí cả Martha Stewart, từng được mệnh danh là "Nữ hoàng của lối sống đẹp", cũng trở thành tâm điểm trong một vụ bê bối thương mại mà người ta cho là bà có dính líu.

Phản ứng của giới chính trị gia trước những vụ bê bối này chẳng khác nào một diễn viên đóng nhiều vai, lúc thì bôi xấu lúc lại mị dân. Trong lúc Tổng thống Bush có lần thề thốt sẽ “có người phải chịu trách nhiệm”, các thành viên trong chính phủ Mỹ (và kể cả bản thân Tổng thống) còn lâu mới tẩy rửa được những điều tiếng xấu về những trò bẩn thỉu, vốn được đăng tải hàng ngày trên trang nhất các tờ báo. Với giới kinh doanh, Andy Grove đã nói lên được cảm xúc của rất nhiều người, “Tôi đã làm kinh doanh được 40 năm, nhưng cho đến gần đây, tôi mới cảm thấy mình rất bối rối và xấu hổ khi là một doanh nhân.”

Tất nhiên, phần lớn các Tổng giám đốc trước kia cũng như bây giờ đều là những công dân tuân thủ luật pháp, những người đã lao động cật lực để hoàn thành mục tiêu mà tổ chức đề ra, và điều này cũng đồng nghĩa với việc họ kiếm sống một cách trung thực. Một số tờ báo đã đăng tải nhiều việc tốt của các vị Tổng giám đốc. Chẳng hạn như trường hợp của Dell Computer. Sau vụ 11/9, công ty đã đứng ra tổ chức nhiều hoạt động quyên góp cho thành phố, và đã đóng góp hàng trăm máy tính cho Văn phòng thị trưởng thành phố New York và các đơn vị tái thiết.

Ông Herb Kelleher - Người sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Southwest Airlines. Ảnh: chron.

Dell còn trao tặng hàng triệu đôla cho Hội chữ thập đỏ (trong đó có cả phần quyên góp của các chi nhánh ở nước ngoài như chi nhánh Dell tại Đức). Dell Computer cũng hỗ trợ cho cho Lầu Năm Góc trong một số việc quan trọng, và nhờ đó đã nhận được một phần thưởng đặc biệt ghi nhận đóng góp của Công ty tại một buổi lễ tổ chức tại tại Austin. Theo Michael Dell, những việc này đã đem lại ý nghĩa mạnh mẽ cho các nhân viên, khi họ cảm thấy mình đã làm được một điều gì đó có ý nghĩa.

Tuy nhiên, những hành động kiểu này tỏ ra hầu như không có tác dụng đối với việc an ủi được những người đang ngồi nhìn tài khoản tiết kiệm và cổ phiếu của mình dần tan biến. Những con số sau đây thực sự khiến người ta choáng váng. Vào năm 2001 và 2002, hơn một triệu người Mỹ đã nghỉ hưu hoặc đang có ý định nghỉ hưu bị buộc phải trở lại hoặc tiếp tục công việc của mình trước tình cảnh các khoản tiết kiệm hưu trí tan thành mây khói.

Do đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi thời đại của những vị tổng giám đốc nổi tiếng đột ngột chấm dứt. Quá trình sụp đổ hình tượng về những vị tổng giám đốc thành đạt được đẩy nhanh và đặt dấu chấm hết qua những tấm hình họ bị giải đi với đôi tay bị còng được đăng tải hầu khắp trên trang nhất các tờ báo khắp nước Mỹ. Thoạt tiên là những vụ bắt bớ và tiếp đó xét xử và phục hồi. Công chúng đón nhận những điều này như những tin tốt lành, còn giới kinh doanh chứng khoán Phố Wall thì có phần cảm thông. Công chúng đòi hỏi một ai đó phải chịu trách nhiệm, và chắc chắn một ai đó phải đứng ra đảm lãnh.

Vào những năm 1990-2000, không một vị Tổng giám đốc nào tránh được búa rìu dư luận chĩa vào họ, kể cả người từng được tờ tạp chí Fortune mệnh danh là Vị Tổng giám đốc của Thế kỷ. Cuối tháng 9 năm 2002, Jack Welch trở thành tâm điểm của vô số những cuộc tranh cãi có nguy cơ làm hoen ố suốt đời thanh danh của ông. Trước đó nhiều tháng, tờ Wall Street Journal đã phanh phui một vụ ngoại tình của Welch, mà kết cục là một cuộc ly hôn đầy cay đắng.

Sam Walton - Người sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Wal-Mart.
Ảnh: cache.

Khi vụ kiện này được đưa ra công chúng, người ta mới biết được khoản lương hưu trọn gói của Welch ở GE gồm có một căn hộ trị giá 15 triệu đôla, dịch vụ giặt là, vé hạng nhất đi xem các sự kiện thể thao, quyền sử dụng máy bay của công ty và vô số những đặc quyền khác.

Trong một bài thanh minh đăng trên Wall Street Journal, Welch đã than vãn rằng các tài liệu tại tòa đã diễn giải cực kỳ sai lầm nhiều khía cạnh trong hợp đồng hưu trí của ông. Welch tuyên bố sẽ hoàn trả cho công ty những đặc quyền được hưởng từ khi nghỉ hưu, và nếu tiếp tục sử dụng các dịch vụ đó trong tương lai thì ông sẽ thanh toán sòng phẳng. Ngay sau đó, Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái cho biết họ đang tiến hành một cuộc điều tra về khoản lương hưu trọn gói của Welch.

Tuy nhiên, sự việc vẫn chưa dừng lại ở đó, nhất là khi những khiếm khuyết của Welch bị phơi bày hoàn toàn. Lần đầu tiên sau nhiều năm, người ta bắt đầu đặt câu hỏi đối với những chiến lược kinh doanh của Welch cũng như chất lượng những khoản doanh thu của GE. Sau khi Welch về hưu, giá cổ phiếu của GE đã giảm nhanh hơn mức trung bình của thị trường. Báo giới liên tục đăng tải những bài báo gây xôn xao dư luận về sự sa sút của tập đoàn khổng lồ này, và những di sản của Welch đang dần mai một ra sao.

Qua những phát biểu trước công chúng, rõ ràng Welch đã hiểu rằng chỉ vì là người được hưởng lợi từ thị trường đầu cơ, giờ đây ông ta trở thành nạn nhân của một sự đạp đổ kiểu “hậu Enron” mới. Các quy tắc đã thay đổi. Khi cổ phiếu tăng trưởng mạnh, giới báo chí và những nhà đầu tư chẳng hề để tâm đến khoản lương hưu trọn gói trị giá nhiều triệu đôla của Welch. Nhưng giờ đây, mọi thỏa thuận kín trong nội bộ ban giám đốc đều có thể là ngòi nổ cho những cuộc tranh cãi gay gắt trong công chúng, thậm chí những vị tổng giám đốc thành đạt nhất cũng phải chịu đựng sự xăm soi ngặt nghèo.

Các khoản lương hưu trọn gói cho các Tổng giám đốc trở thành tâm điểm chú ý của công luận, nhất là khi mức lương của các vị Tổng giám đốc các tập đoàn lớn đã tăng tới mức khủng khiếp, càng góp phần đào sâu hố ngăn cách giữa giới quản lý và lao động. Theo Tạp chí Fortune, từ năm 1970 đến năm 1999, mức lương hưu thực tế trung bình của 100 vị tổng giám đốc hàng đầu đã có bước tăng nhảy vọt, từ chỗ gấp 39 lần lương hưu của một nhân viên trung bình tới gấp hơn 1.000 lần. Và mặc dù vẫn còn quá sớm để đưa ra đánh giá cuối cùng về Jack Welch và những người cùng đẳng cấp với ông ta, nhưng có điều rõ ràng là thanh danh của họ đang đứng trước nguy cơ tiêu biến bởi chính cái “Cỗ máy nổi tiếng” trước kia đã góp phần tạo nên hình ảnh của họ.

Trong khi nhiều người có thể lớn tiếng cho rằng khoản lương hưu của Welch là cao quá mức, và rằng tư cách đạo đức của ông trong cuộc sống có khoảng cách quá xa so với trình độ và kỹ năng nghề nghiệp, song không thể phủ nhận được những thành tích của Welch cũng như của nhiều vị tổng giám đốc khác trong vai trò là một nhà lãnh đạo kinh doanh. Dưới sự dẫn dắt của Welch, GE đã chuyển mình từ một tập đoàn sản xuất công nghiệp sắp hết thời trị giá 25 tỷ đôla thành một “gã khổng lồ” đầy năng động và nhạy bén trong lĩnh vực dịch vụ với trị giá lên tới 130 tỷ đôla. Nhận thức được những hạn chế trong mô hình quản lý tập quyền thời bấy giờ, Welch đã sắp xếp lại bộ máy hành chính thuộc loại lớn nhất thế giới thành một tổ chức lấy học hỏi, nghiên cứu và ý tưởng làm trung tâm.

Các nhà lãnh đạo được đề cập đến trong cuốn sách "Những bài học của 7 tổng giám đốc thành công nhất nước Mỹ" VnExpress phối hợp với Alpha Books giới thiệu với bạn đọc đều mắc lỗi và đã từng đối mặt với gian nan. Đây là hệ quả từ những nước đi hay những thủ thuật kinh doanh độc quyền sai lầm, và cả khoản lương hưu trọn gói quá mức.

Tuy nhiên, bỏ qua những sai lầm đó, những người này đều là những “người kiến tạo”. Họ đã tạo dựng nên những thiết chế chứa đựng rất nhiều ý tưởng và những quan niệm kinh doanh tiên tiến nhất trên thế giới trong những năm cuối thế kỷ XX. Việc bỏ qua những thành quả và coi thường những bài học kinh doanh hàm chứa trong những thành công đó thực sự là một sai lầm lớn.

Họ là những ai? Đó là Michael Dell - Người sáng lập kiêm Tổng giám đốc tập đoàn Dell Computer. Jack Welch - cựu Tổng giám đốc GE. Lou Gerstner - cựu Tổng giám đốc IBM. Andy Grove - Đồng sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc Intel. Bill Gates - Đồng sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Microsoft. Herb Kelleher - Người sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Southwest Airlines. Sam Walton - Người sáng lập kiêm cựu Tổng giám đốc của Wal-Mart.

Hồng Anh (theo Alpha Books)



Sam Walton - ông vua bán lẻ ở Mỹ


Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục nghìn cửa hàng bán lẻ đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart trụ lại. Sở dĩ Wal-Mart có được sự phát triển như ngày hôm nay là nhờ tập đoàn này được chèo chống bởi một nhà kinh doanh tài ba - Sam Walton.
Tỷ phú Sam Walton.
Ảnh: businessweek.

Năm 1962, Sam Walton chỉ là một công nhân làm thuê cho một tiệm giặt là tại thị trấn Bentonville bang Arkansas nước Mỹ. Hằng ngày, người thanh niên 28 tuổi này có nhiệm vụ cùng 3 nhân viên khác đem những món đồ đã được là ủi sạch sẽ trao tận tay cho khách hàng.

Khi đó thống trị hệ thống cửa hàng bán lẻ tại Arkansas và các bang lân cận là hai tập đoàn bán lẻ khổng lồ Kmart và Sears. Sau nhiều lần đi giao hàng, trực tiếp "va chạm" với đủ các loại khách hàng, Sam Walton đã phát hiện Kmart và Sears không hề xuất hiện ở các thị trấn nhỏ bé hẻo lánh như thị trấn Benton quê mình.

Với phản xạ kinh doanh nhạy bén, Sam Walton lập tức dốc toàn bộ số tiền 150 đôla thuê 8 công nhân và thành lập một cửa hàng bán lẻ lấy tên là Wal-Mart ngay tại thị trấn Bentonville quê ông.

Thời gian đầu tiên do vốn liếng ít ỏi, kinh nghiệm thiếu, cửa hàng của Sam chủ yếu kinh doanh buôn sỉ bán lẻ theo phương châm lấy công làm lãi, buôn bán những nhu yếu phẩm cần thiết nhất. Sam Walton đã thu hút số lượng lớn khách hàng trong thị trấn bằng tác phong phục vụ nhiệt tình chu đáo, chất lượng hàng bảo đảm, giá cả phải chăng. Cho tới năm 1965, Wal-Mart đã trở thành một trong những cửa hàng bán lẻ thu hút nhiều khách hàng tại thị trấn Benton.

Mặc dù có bước khởi đầu khá thuận lợi nhưng là con người xuất thân từ nông thôn, Walton rất tiết kiệm trong chi phí. Thậm chí khi trở thành một trong số những người giầu nhất nước Mỹ, Sam vẫn là một con người bình dị và khiêm tốn.

Dưới tài lãnh đạo của Sam Walton, Wal-Mart đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành đối thủ cạnh tranh ngang ngửa với đối thủ Kmart vào đầu thập niên 1970. Hiện nay, hệ thống cửa hàng siêu thị bán lẻ thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Wal-Mart đã lên tới hàng chục nghìn chiếc nằm rải rác khắp Bắc Mỹ, châu Âu và tích cực vươn sang châu Á. Quy mô khổng lồ hiện nay của Wal-Mart đã được giới kinh doanh Mỹ thừa nhận. Theo thống kê của Hiệp hội thương mại Mỹ, doanh số bán hàng của Wal-Mart đạt 216 tỷ đôla một năm, vượt qua doanh số bán hàng của hãng điện tử gia dụng nổi tiếng GE và chỉ chịu đứng sau tập đoàn kinh doanh xăng dầu khổng lồ lớn thứ 2 thế giới là Exxon-Mobil.

Theo bảng xếp hạng tạp chí danh tiếng Fortune vừa công bố, tập đoàn bán lẻ Wal-Mart lần thứ tư liên tiếp đứng đầu danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới. Wal-Mart ở vị trị số một với doanh số vượt trội 288 tỷ đôla, trong đó lợi nhuận đạt 10,2 tỷ đôla. Suốt từ năm 2002 đến nay, Wal-Mart luôn đứng đầu danh sách Fortune 500 và được xem là “công ty được ngưỡng mộ nhất tại Mỹ”.

Trong danh sách 25 nhà kinh doanh có khả năng làm thay đổi thế giới do hãng CNN và tạp chí Fortune bình chọn và công bố hồi đầu tháng 4 năm 2005, người sáng lập Wal-Mart Sam Walton được xếp thứ 2, chỉ sau Bill Gates, tỷ phú giàu nhất thế giới và là chủ tập đoàn Microsoft.

Wal-Mart có doanh thu lớn nhất trong số các công ty bán lẻ trên thế giới, vượt xa công ty đứng thứ nhì là Carrefour. Doanh thu của công ty bán lẻ Pháp này chỉ gần bằng một nửa của Wal-Mart. Hệ thống Wal-Mart gồm hơn 4.688 cửa hàng khắp thế giới, với hơn hai phần ba ở tại nước Mỹ.

Ra đời năm 1962 thì đến năm 1979, Wal-Mart lần đầu đạt doanh thu một tỷ đô la một năm. Đến năm 1993, doanh thu đã đạt được con số một tỷ đôla mỗi tuần. Năm 2001, doanh thu mỗi ngày của Wal-Mart đã gần bằng con số ấy. So với thời điểm 1992, Wal-Mart nay lớn hơn gấp năm lần trước đây, tuyển dụng một lượng lao động gấp ba lần hãng General Motors. Chỉ riêng một mặt hàng như bột giặt, mỗi năm Wal-Mart bán được một lượng trị giá 1,4 tỷ đôla.

Nếu xem Wal-Mart như một quốc gia thì đây là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Trung Quốc, vượt qua cả Nga và Anh và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Trung Quốc (sau Đức). Với giá cả hết sức chặt chẽ và yêu cầu cao đối với nhà phân phối, Wal-Mart đã làm thay đổi phương thức làm ăn kinh doanh của Trung Quốc.

Nhiều chuyên gia kinh tế dự báo rằng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, trong một thập kỷ nữa, doanh số hằng năm của Wal-Mart có thể vượt 1.000 tỷ đôla. Những số liệu này chỉ một quốc gia mạnh mới có thể có được. Năm 1997, Wal-Mart trở thành tập đoàn thuê nhiều lao động nhất ở Mỹ với gần 570.000 người. Cũng trong năm này, doanh số hàng năm của hãng vượt 100 tỷ đôla. Năm 1999, Wal-Mart trở thành tập đoàn lớn nhất thế giới về nhân sự với 1.140.000 người.

Nếu như giai đoạn giữa thế kỷ 20 được xem là kỷ nguyên của hãng sản xuất xe hơi General Motors và giai đoạn cuối thế kỷ 20 là của hãng phần mềm Microsoft thì đầu thế kỷ 21 này rõ ràng đã là của Wal-Mart. Tập đoàn này hiện có 4.688 siêu thị trên toàn thế giới, trong đó 80% là ở Mỹ. Bình quân mỗi ngày có khoảng 20 triệu người đến các siêu thị của Wal-Mart. Tại Mỹ, hơn 80% hộ gia đình mỗi năm mua ít nhất vài sản phẩm từ các cửa hàng của hãng.

Khi đứng ra thành lập công ty kinh doanh siêu thị bán hàng giảm giá tối đa Wal-Mart vào năm 1962 tại Bentonville, bang Arkansas, chắc hẳn Sam Walton không ngờ có ngày công ty của ông lại đứng trên cả những đại gia trong các ngành công nghiệp dầu khí (Exxon-Mobil), xe hơi (General Motors, Ford Motors), máy bay (Boeing… và trở thành công ty số một của nền công nghiệp Mỹ và thế giới.

Wal-Mart là công ty dịch vụ đầu tiên leo đến vị trí hạng nhất trên danh sách của Fortune (bắt đầu công bố từ năm 1955). Ngoài ra, Wal-Mart cũng hiện diện trong danh sách Fortune 100 công ty được giới lao động Mỹ ưa thích xin vào làm việc nhất.

Một trong những tính cách đặc biệt của ông là luôn khuyến khích tinh thần của nhân viên. Như năm 1975, nhân một chuyến công tác tới Hàn Quốc, S.Walton đã cao hứng sáng tác bài hát riêng cho Wal-Mart có tên là “Wal-Mart Cheer” để cổ động tinh thần làm việc của nhân viên cũng như nâng cao tính đoàn kết trong nội bộ. Bài ca vẫn được lưu truyền rộng rãi trong Wal-Mart cho tới ngày nay. Tính đến năm 2005, Wal-Mart có tất cả 1.300.000 công nhân viên trên toàn thế giới, trở thành tập đoàn tư nhân đông nhân viên nhất thế giới.

Công thức làm ăn của ông đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác là cắt giảm chi phí + giảm giá + dịch vụ tối ưu + khai thác hiệu quả công nghệ thông tin + đảm bảo cuộc sống nhân viên.

Toàn bộ bí kíp kinh doanh của gã tỷ phú bán lẻ Sam Walton được gói gọn trong cuốn "Cuộc đời kinh doanh tại Mỹ", do Công ty Alpha Books phát hành. Với Sam Walton “Bí quyết thành công của một người bán lẻ hàng hóa là phải mang lại cho khách hàng những điều mà họ muốn. Nhưng như vậy chưa đủ, để trở thành xuất sắc, khách hàng phải được hưởng nhiều hơn cái họ chờ đợi. Hãy luôn đặt mình vào vị trí của khách hàng để xem họ muốn gì: Hàng hóa chất lượng tốt và phong phú? Giá thành thấp nhất? Độ tin cậy tối đa? Dịch vụ tận tình? Giờ giấc thuận tiện? Nơi đỗ xe miễn phí? Tất nhiên, khi họ thấy yên tâm, họ sẽ tiếp tục tới cửa hàng. Còn ngược lại, cũng sẽ dễ hiểu nếu chúng ta không bao giờ gặp lại những khách hàng không được thỏa mãn nhu cầu”.

Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ vững phương châm ấy.

(Theo "Cuộc đời kinh doanh tại Mỹ" do Alpha Books phát hành)