Friday, April 28, 2006

HÀ NỘI TRONG MẮT EM



Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Lòng chàng có để một tơ vương.“

Nguyễn Bính

Thời học sinh, đọc cuốn Hà Nội ba mươi sáu phố phường của Thạch Lam, tôi mơ ước một lần đến thăm đất ngàn năm văn vật. Nhưng hoàn cảnh đất nước chia đôi ngày 20.7.1954, nhiều người bỏ miền Bắc di cư vào Nam . Từ năm 1975 thống nhất Nam Bắc, nhưng hoàn cảnh giai đoạn đó khó khăn, không có cơ hội đi du lịch !

Hè năm 2003 gia đình tôi lần đầu về Sàigòn, sau 25 xa xứ nỗi xúc động tràn ngập trên đường về quê hương, kỷ niệm cả một đời đang trở về trước mặt. Ngày đầu đi viếng mộ ba mẹ, thăm bà con xa gần. Một tuần sau chúng tôi đi Hà Nội về Đà Nẵng. Gia đình tôi đến Hà Nội lần đầu với tâm trạng bồi hồi, mong thăm được danh lam thắng cảnh, các Đền, Chùa di tích văn hoá trước năm 1945. Thời tiết vào hạ Hà Nội nóng trên 38 độ C, xuống phi trường Nội Bài hừng hực hơi nóng từ sân bay mới tráng nhựa, làm toát mồ hôi nhễ nhại.

Phi trường Quốc tế của Thủ đô đã tu sửa 2 năm (trước 2003), nhưng còn nghèo nàn. Từ Nội Bài về Hà Nội khoảng 35 km. Qua cầu Thăng Long bắc ngang sông Hồng, nước màu đỏ chảy êm đềm giữa mênh mang nắng gió, đây là cầu dài nhất Đông Nam Á phần chính 1688m với 15 nhịp, chiều dài toàn bộ 5503 m rộng 20 m được xây từ 1974 xong 1985. Tầng trên dành cho xe hơi, tầng dưới là đường rầy tàu lửa, hai bên dành cho xe gắn máy và khách đi bộ. Hai bên xa lộ nhiều nhà mới xây dựng theo lối kiến trúc đa dạng, nhưng đặc thù nhà miền Bắc phần trên thường có hình tháp.

Hà Nội xây dựng từ năm 1010 dưới triều vua Lý Công Uẩn, lịch sử thay đổi theo thời gian, qua các tên : Thăng Long, Ðông Ðô, Đông Kinh, đến năm 1831 vua Minh Mạng đổi thành Hà Nội. Hà Nội có nghiã là vùng đất bên trong sông. Đoạn sông Hồng lấy ôm lấy . Hà Nội vẫn còn nhiều công trình kiến trúc cổ và hơn 600 ngôi chùa. Các hồ ở Hà Nội chiếm tới 10 héc ta, nằm lẫn vào các khu phố, các hồ : hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu,Trúc Bạch,Thiền Quang, Thủ Lệ, Giảng Võ.. Các sông chảy qua Hà Nội là sông : Đuống, Cầu, Cà Lồ, Dáy, Nhuệ ,Tích ,Tô Lịch và sông Kim Ngưu mang lại cho Hà Nội một vẻ đẹp thơ mộng. Hà Nội có 7 quận nội thành: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Ðình, Ðống Ða, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân và 5 huyện ngoại thành: Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh trì, Sóc Sơn.

Người Hà Nội lịch sự, các cô gái có giọng nói ngọt ngào, nhưng các con tôi thắc mắc tại sao ? các cô gái Hà Nội xinh đẹp, nhưng họ không biết dùng hai chữ “cảm ơn /Thank you“ hay là “không có chi/ you’re welcome“ với du khách. Nguời Hà Nội có thể họ sống bề ngoài hơn “xấu chê tốt khoe“, nhưng đời sống cũng còn khá chênh lệch, những người chạy xe ôm, mang giày không vớ...Trên đường phố đủ các loại xe đời mới đắc tiền như : BMW, Mercedes, người ngồi sau tài xế y phục sang trọng comple, cravate, không còn loại áo đại cán theo kiểu Mao thời xưa. Nón cối, dép râu chỉ còn tồn tại với giới lao động mà thôi.

Văn Miếu Quốc Tử Giám (Temple de la Litterature Premiere Universite Nationale) là một trong những di tích lịch sử, quý báu được thành lập từ năm 1070, năm 1076 vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám diện tích 1530m2 là Đại học đầu tiên của Việt Nam. Từ 1253 được đổi tên Quốc Học Viện. Năm 1483 đổi thành Thái Học Viện. Bên trong có tường ngăn thành nhiều khu. Phiá trước có Tứ trụ cao 75 m ngang 350 m biểu hiệu cho bốn hướng Đông-Tây-Nam-Bắc; cổng chánh có chữ Văn Miếu Môn, hai bên vào cổng có đôi rồng đá từ thế kỷ thứ 15.

Từ cổng đi vào là công viên nhỏ có những cây đa cổ thụ cành lá sum xê, vào cổng Đại Trung Môn: có hai cổng hai bên Thành đức và Thành đạt đi theo lối giữa và 2 bên đến Khuê Văn Các (lầu bình thơ) có cổng tò vò ba mái biểu tượng cho : Qúa khứ-Hiện tại-tương lai, lối kiến trúc ở đây nhiều đường xoắn ốc trái-phải có nghiã là Sinh -Tử; hai bên gác có cổng nhỏ tên là Súc Văn và Bí Văn, vào trong khu nầy chính giữa có các dãy nhà dựng 82 tấm bia đá trên lưng rùa, người ta cho rằng lưng rùa là Trời, bụng là Đất rùa biểu tượng cho sức khoẻ và trường thọ

Từ năm 1484 Hồng Đức thứ 5 Lê Thánh Tông chủ trương ghi lên bia đá tên tuổi những người đậu tiến sĩ. Thiên Quang Tỉnh (giếng ánh sáng mặt trời) đầy nước trong, in bóng như tấm gương soi bóng, giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Đi qua Khuê Văn Các sân rộng có nhiều chậu kiểng được cắt xén mỹ thuật gọi là sân Đại Bái lát gạch, hai dãy nhà lớn Tả vu và Hữu vu, ở giữa ngôi nhà dài gọi là Bái Đường, thờ hình Chu Văn An là hiệu trưởng trường nầy đầu tiên, hai bên có 2 con hạt cao đang ngậm ngọc ở mỏ và đứng trên 2 con rùa bằng đồng (nghĩa là trí tuệ và trí thức vĩnh viễn), còn lại chiếc chuông lớn được đúc năm 1768.

Nóc nhà có cặp rồng đang chầu, nhà thấp cột bằng gỗ liêm chạm trổ sơn màu đỏ, kèo đều chạm hình đầu rồng công phu, bên phải góc cuối khu có cái trống gỗ lớn sơn màu đỏ, treo trên cái giá cao khoảng 4 m, Bên nhà thờ Chu Văn An trên bục gỗ nhỏ, các cô mặc áo tứ thân, đội nón quai thao, trình diễn nhạc cổ truyền Việt Nam. Những hàng ghế dành cho du khách, sau khi trình diễn nhạc, các cô bán các món hàng kỷ niệm, muốn thăm Văn Miếu phải mua 5000 đồng VN tiền vé vào cửa.

Ngày nay Văn Miếu chỉ còn là nơi thờ “Thánh Hiền” còn lại dư âm thời phát triển văn hóa. Vua Gia Long (1802-1819) thống nhất Sơn hà cho dựng thêm Khuê Văn Các, năm 1805 chuyển Quốc Tử Giám vào kinh đô Huế. Văn Miếu được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Văn Miếu là linh hồn truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam . Bởi vậy trong các đợt viếng thăm ngoại giao của cố T.thống Francois Mitterand đến Việt Nam từ 23-27.6. 993 cũng như cưụ Tổng Thống Bill Clinton đến Việt Nam từ 16 đến 18.01.2000 đều viếng thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.

Cầu Thê Húc nối liền với đền Ngọc Sơn nghiêng mình trên mặt nước Hồ Hoàn Kiếm, cầu sơn màu đỏ. Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời, đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một ốc đảo nhiều cây xanh. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung, trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.

Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng- ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà.

Nơi đây thể hiện, quan niệm ảnh hưởng Tam giáo của người Việt. Mùi thơm thoang thoảng của nhang trầm, do khách hành hương hay các „Sĩ tử“ ngày nay đi thi, đến cầu nguyện các vị Thánh giúp may mắn.. Đền có con rùa khô lớn để trong lồng kính. Tin đồn dưới hồ hiện nay còn con rùa lớn thỉnh thoảng nổi lên mặt nước. Đền Ngọc Sơn là kiến trúc hòa hợp giữa đền và hồ, nối liền thời gian và không gian hài hoà giữa con người và thiên nhiên.

Hồ Trúc Bạch có từ thế kỉ XII khi dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang (nay là phố Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc Đông Nam Hồ Tây để nuôi cá. Từ khi thành hồ biệt lập, hồ đã đi vào thư tịch cổ. Sách “Tây Hồ chí” cho biết nguyên ở phía Nam hồ có làng Trúc Yên, vốn có nghề làm mành, do đó nhà nào cũng trồng trúc, trúc mọc như rừng.

Đời chúa Trịnh Giang (1729-1740) xây ở đây một cung điện gọi là Viện Trúc Lâm. Về sau, Viện trở thành nơi giam cầm những cung nữ có lỗi, phải dệt lụa để mưu sinh. Lụa đẹp, bóng bẩy, nổi tiếng khắp kinh thành, gọi là lụa làng Trúc (chữ Hán là Trúc Bạch). Ba phía xung quanh hồ phố xá che khuất, chỉ phía Tây giáp đường Cổ Ngư (nay là Thanh Niên) Con đường đẹp như chiếc cầu nằm ngang hai hồ Tây và Trúc Bạch. Đường Cổ Ngư dài gần 1km, nhiều cây liễu rủ lá xanh mền mại phủ xuống mặt hồ, những hàng phượng vĩ còn sót lại những cánh hoa rơi rụng, Trưa hè Hà Nội thơ mộng nhờ gió mát đưa đến từ các Hồ . Đêm về nơi đây là điểm hẹn hò của những cặp tình nhân ngồi trên ghế đá ..nếu ai đi một mình sẽ bị những cặp ngồi ở đó tấn công không cho vào.

Chúng tôi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm trưa và tối thưởng thức gío mát, trên các ghế đá đều có những cặp tình nhân đang tình tự. Có thể nơi đây là điểm hẹn hò, họ rất tự nhiên luyến ái trước mặt người đi, họ văn minh hơn cả giới trẻ Tây phương ? tôi hỏi người bán hàng lưu niệm công an đâu không đến dẹp bớt cái lăng nhăng kia? anh ta trả lời “dân Hà Nội đều là công an” Anh còn cho biết Thủ đô có hơn 20.000 công an mặc thường phục an ninh ? nạn giật máy hình chạy rất ít, nhưng nạn móc túi thì thường xảy ra ở nơi đông người.

Phía Bắc hồ có gò đất nhỏ, trên gò có đền thờ Cẩu Nhi gắn với chuyện Lý Công Uẩn dời đô. Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974), dời đô năm Canh Tuất (1010). Mà "Tuất" theo lịch cổ là năm "Chó". Trong tín ngưỡng cổ truyền chó là con vật có khả năng xua đuổi tà ma, bảo vệ đất đai. Huyền thoại kể rằng trước ngày Lý Công Uẩn dời đô, có một con chó tới làm ổ đẻ con trên đỉnh núi Nùng, nơi này sau dựng "Chính điện đài" và lập bên điện ngôi đền thờ chó mẹ và chó con. Đến triều đại sau, đền thờ Cẩu Mẫu, Cẩu Nhi được dời ra ngoài hoàng thành, dựng trên gò trong hồ Trúc. Quanh hồ có nhiều di tích, chùa chiền nổi tiếng kiến trúc đặc sắc

Ngày nay, quanh Hồ Tây nhiều biệt thự hiện đại, sang trọng mọc lên. nơi đây du khách có thể thưởng thức những món ăn đặc sản : bánh tôm Hồ Tây, bún ốc Hồ Tây, quán cá Hồ Tây ? đi du thuyền Hồ Tây nhìn được phong cảnh chung quanh Hồ Tây có nhiều làng hoa nổi tiếng: Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, Tứ Liên, Nhật Tân, Ðại Yên, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Trích Sài, tiếc thay nước Hồ Tây bị ô nhiễm đục ngầu.

Chùa Một cột còn gọi là chùa Diên Hựu, nghĩa phúc lành dài lâu. Xây năm 1049 thời vua Lý Thánh Tông, nhà vua cho dựng chùa Một Cột có dáng dấp đã thấy trong giấc mơ như một đoá hoa sen nở trên hồ nước. Có lẽ du khách cảm thấy nỗi buồn nào đó ! trước một di tích lịch sử được phổ biến sâu rộng là linh hồn dân tộc, bản sắc văn hóa, nhưng Chùa nhỏ khiêm nhượng như cái „Am“ được xây giữa hồ sen hình vuông có bờ đá bao bọc..dường như cái cột gỗ duy nhất được thay thế bằng bê tông qua nhiều lần trùng tu trong khu vườn nhỏ có nhiều cây cổ thụ, ngược lại bên cạnh và phiá trước là quảng trường Ba Đình...hai nơi kiến trúc tân kỳ, lăng ông Hồ có lính nghi lễ, mặc quân phục trắng túc trực tốn kém, nặng phần trình diển và tuyên truyền. Hà Nội cũng đầy dẫy tệ nạn xã hội bằng giả, học giả, kiến thức giả, con người (học thức) giả, thành tích giả,

Hướng dẫn viên tâm sự riêng với tôi, hồi cựu Tổng Thống Clinton thăm Hà Nội nói chuyện với sinh viên, anh được phép tham dự, nhưng nếu được phỏng vấn, không được phép trả lời trực tiếp, có người thông dịch và phải trả lời theo chủ trương của đảng. Anh có người anh du học ở Nga lấy bằng tiến sĩ điện, về nước không có thế lực, nên đành trở sang Nga làm nghề thương mãi…

Đền Quan Thánh còn có tên là Trấn Vũ Đế là nhân vật thần thoại ông Thánh giúp An Dương Vương trừ ma khi xây thành Cổ Loa, Đền nầy xây vào đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) năm 1893 đền được tu sửa trong đền có tượng Thánh Trấn Vũ bằng đồng đen đúc năm 1677 nặng 3600kg cao 3,92 m chu vi 3,48m Khách hành hương đưa tay rờ dưới chân tượng sẽ được may mắn bởi vậy phần bàn chân tượng sáng bóng màu đồng vàng. Đền được bao phủ bởi những cành cây cổ thụ, sân rộng luôn có bóng mát nơi nầy buổi chiều là sân tập võ thuật.

Chùa Trần Quốc nằm trên đảo nhỏ Hồ Tây, ngôi chùa cổ nhất Việt Nam (?) xây dựng từ năm 541. Chùa yên tịnh trầm mặc, bên nước hồ gió mát không thấy vị Sư nào trù trì ? trong chùa có tượng Phật Thích Ca (Sakyamuni) nhập niết bàn là kiệt tác của nghệ thuật tạc tượng Việt Nam. Trước sân Chùa có cây bồ đề của Thủ tướng Ấn Độ tặng năm 1959 được chiết nhánh từ cây bồ đề ở vườn Lâm Tỳ Ni, du khách viếng Chùa đi quanh gốc cây nầy mấy vòng để cầu nguyện điều mình muốn sẽ toại nguyện (theo lời hướng dẫn viên)

Đền Hai Bà Trưng được lập từ năm 1142 đời vua Lý Anh Tông, đền xây trên bờ sông Hồng bị nước sông sói lở, nên dân làng Đồng Nhân dời đền tới khu Võ Sở vào năm Gia Long 18. Trong hậu cung có tượng Hai Bà Trưng, hai bên tả hữu là tượng các nữ tướng và 2 con voi gỗ màu đen với ngà voi thật. Đây là 2 voi tượng trưng cho voi của Hai Bà cầm quân ra trận. Hàng năm đến mùng 6 tháng 2 người ta thường làm lễ hội tưởng niệm Hai Bà, rước lễ lấy nước giữa dòng sông về tắm tượng.

Hà Nội 36 phố phường (1) đều bắt đầu chữ Hàng. Hàng Đào nghe qua có thể nhầm nơi nầy bán đào hay người đẹp. Làng nầy có từ thế kỷ thứ 15 làm nghề nhuộm vải màu đỏ hoa đào, nên có tên Hàng Đào...

Chiều Hà Nội chúng tôi đi xích lô với hướng dẫn viên thăm 36 phố phường, đường phố Hà Nội hẹp, ít xe hơn Sài Gòn các cửa tiệm nhỏ, kiến trúc xưa nhà theo hình ống, nhiều căn phố rộng hơn 1m5, lầu không có cửa sổ, những hàng cây cổ thụ gốc lớn được “tưới nước quanh năm“ nhà dân hay các quán ăn thường mang nước rửa chén, giặt quần áo.. đổ vào gốc cây. Hà Nội đẹp, thơ mộng nhưng nếu du khách uống nước nhiều, sẽ không có nơi giải quyết, đàn ông có thể đứng tạm gốc cây, còn quý bà thi sao ? dọc theo đường không tìm được thùng rác.

Thỉnh thoảng trên đường thanh niên ăn mặc lịch sự, bỗng nhiên nhổ bãi nước bọt xuống đường, rồi bình thản đi thẳng. Nước cống từ trong nhà chảy ra trên các rảnh trên phố, phố xưa không có hệ thống cống chìm như Sài Gòn. Chợ Đồng Xuân xây cất từ năm 1889, nỗi tiếng Hà Nội chợ dài 52 m cao 19 m nơi đây bán đủ hàng hóa nhất miền Bắc, có nhiều loại hàng của Trung Quốc, nếu khách không rành mua thường bị hàng giả, người bán thường nói giá cao gấp 2, 3 lần.

Phố Hàng Chuối như những khu phố khác, nhưng đêm về có thêm “chợ hoa nở về đêm“ của những phụ nữ ''buôn son bán phấn''. ''Chợ tình'' chợ một phiên..Một ngày trôi qua khi bóng đêm chầm chậm phủ xuống từng góc phố Hà Nội là lúc những ''bò lạc'' bắt đầu một cuộc mưu sinh, lầm lũi nơi hè đường, bóng tối. Sự mưu sinh trong đắng nhục và xô bồ giữa đêm đen, mỗi gốc cây, cột đèn diễn ra những cuộc mua bán tình dục...Muốn hiểu mặt trái của Hà Nội, phải cần một thời gian dài ở đó.

Buổi tối lang thang qua phố, trên vỉa hè thường bán gà luộc còn đủ đầu, chân. Gà nuôi trong vườn (gọi là gà đi bộ) dân Hà Nội ít nhậu như Sài Gòn, họ tụm nhau uống trà đánh cờ tướng, phần lớn các món chè được các cô ưa thích..những tiệm ăn lịch sự sạch như Quán Huế, Ngự Thiện, Vip, Nam Thanh, nhưng trời nóng quá ăn không ngon miệng. Đứng ở Sàigòn Hotel trên đường Lý Thường Kiệt có thể nhìn thấy khu phố Khâm Thiên, ngày xưa không quân Mỹ nén bom tàn phá, đã xây dựng lại thành phố mới đẹp hơn. Về khuya đến quán cháo ngan (vịt) và các tiệm phở ở phố Hai Bà Trưng ngon nổi tiếng... đi qua vài con đường đến quán cháo ngan, đông thực khách ồn ào nóng nực, giống như một quán quốc doanh . Người bồi mời chúng tôi lên lầu có máy lạnh sạch sẽ hơn, nhưng đi qua nhà bếp nhân viên làm việc mồ hôi nhễ nhại, những con vịt vừa cắt tiết bỏ nằm dưới đất bên những vũng nước đọng nhiều rác, thau rửa chén có những miếng giẻ đổi màu, lên lầu cũng chẳng khá hơn, mặt bàn còn dính dầu mỡ…

Đến quán phở, có vợ chồng người ngoại quốc đang ngồi, chúng tôi được chủ quán mời vào ngồi đối diện với hai người khách (họ nói tiếng Pháp như vậy là dân Tây thứ thiệt) biết ăn phở. Chúng tôi trao đổi xã giao vài câu chuyện, gọi bia Tiger phải chờ 20 phút sau. Phở gốc từ Hà Nội, nhiều người có lẽ vì còn bảo thủ cho rằng “phở Hà Nội vẫn giữ được bí quyết khiến nó trở thành độc đáo, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật không nơi nào bắt chước được“... (Tôi không chú ý đến vấn đề ăn uống như Vũ Bằng, đến Hà Nội ăn Phở sẽ thất vọng, các Khách sạn lớn như Sàigon Hạ Long đều bán phở không có rau thơm).

Chủ quán sai con đi mua mấy lon cola..Bếp nấu phở trên cái xe cũ, lò than cháy đỏ, nước phở sôi nhẹ bốc khói, tô phở đã sắp tái nạm, bà đầu bếp dùng muỗng đầy bột ngọt (mì chính) bỏ vào tô, tôi yêu cầu bỏ bột ngọt ít, bà ta tự nhiên bốc ra và chùi chùi tay vào quần, rồi đổ nước lèo bưng tô phở, ngón tay cái bấm vào miệng tô, để trên bàn, không có các thứ rau : chanh, rau quế, rau thơm, giá sống, bên cạnh các cuộn giấy vệ sinh dùng để lau miệng, ống đũa tre đen sậm !! làm sao có thể ăn được! tôi chợt nhớ câu ca dao mà tự hỏi

“Ngàn năm bảo vật đất Thăng Long, bún chả (phở) là đây có phải không?”

Hè ở Hà Nội, chỉ còn lại những cánh hoa phượng vĩ thưa thớt rơi xuống ven hồ. Hồ Hoàn Kiếm thơ mộng, nhìn hồ nước yên lặng không một gợn sóng, những đàn cá nhỏ đi tìm mồi. Quán nước bên hồ đông người, thức ăn nghèo nàn, bàn ghế thô sơ, dù khát nước nhưng không thể uống hết nửa chai bia Hà Nội có mùi vị chua.. Dạo quanh phố Hàng Gai, khu “tơ lụa” nhiều du khách Tây phương xem hàng người mua cũng nhiều, mà xem cũng lắm, Giá cả so với đời sống nơi đây rất đắt, chỉ dành cho giới giàu có, rủng rỉnh đôla may ra mới chịu được.

Người nghèo nếu thích phải suy đi, tính lại trước khi mua một món hàng! Những hàng cây sấu thân thẳng, tán tròn, xanh tốt quanh năm vì lá non mọc ngay khi lá già rụng, không bị sâu hại đến tàn úa như cây Bàng, cây sấu chiệu được thời tiết Hà Nội nóng, lạnh, giông bão khắc nghiệt. Thành ngữ "dân trèo sấu" chỉ những người đói nghèo, vô gia cư của Hà Nội, nhưng không có nghĩa cây sấu gắn với hèn mọn, mà kiêu bạc dịu dàng. Cây sấu trái nhỏ như trái chanh, trái sấu rẻ tiền làm ô mai hay gọt vỏ ngâm như chanh muối sẽ thành những món khoái khẩu.

Muốn thăm đền Phù Đổng Thiên Vương ở Gia Lâm phải qua cầu Chương Dương cầu nầy xây từ (1979-1985) dài 1213 m gồm 11 nhịp, rộng 18,55m là cột sống nối liền Hà Nội với ngọai thành bên kia sông Hồng và đi các tỉnh, nhưng cầu không được tu bổ các mảnh bê tông nức xuống cấp, cầu nằm song song cách cầu Long Biên không xa. Cầu Long biên như một di tích lịch sử, nó có tên Paul Doumer xây từ năm (1898-1902) thời thuộc địa, cầu dài 1682 m nối liền Hà Nội với Gia Lâm, chiến tranh trước 1972 bị không quân Hoa kỳ ném bom sập, dù tu sửa nhưng cầu bị biến dạng. Hiện nay chỉ dùng cho Tàu lửa và khách đi bộ, cầu Long Biên vắt qua sông Hồng dưới gầm cầu có một xóm nhỏ của những người dân tứ xứ.. Vùng ngoại thành từ đê Yên phụ đến gần đập đá, đã mọc lên một ngôi làng thịt chó. Một dãy phố dài cả cây số với những bảng hiệu san sát bán thịt chó, là món ăn ưa thích của người Bắc, người ta gọi đích danh quán thịt chó, chứ không nói một cách lấp lửng như xưa ở Sàigòn: “Cầy Tơ; Nai Đồng quê; Đúng đây rồi..“ Thỉnh thoảng có quán thịt Dê mọi người cũng ưa thích, đặc sản có tương làng Bần qua ca dao

“Thịt dê ăn với tương Bần, đêm về anh mới phừng phừng như dê

Đêm về em mới tỉ tê, ngày mai anh cứ thịt dê tương Bần“

Hà Nội thành phố cổ kính, mái nhà xưa nép mình bên mặt hồ lộng gió. Hồ Gươm có những hàng liễu thướt tha mơ màng soi bóng bên hồ nước xanh thăm thẳm. Hà Nội Thủ Đô Việt Nam đã hơn 1.000 năm văn hoá, Hà nội đất ngàn năm văn hiến, cái rốn văn hoá của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa được truyền tụng qua lịch sử, thi ca.. Đi qua phủ thủ tướng, dinh chủ tịch nơi đó là những công trình kiến trúc từ thời thuộc địa Pháp. Hoả lò được thay thế Hilton Hanoi Opera tân kỳ.

Hà Nội bây giờ không còn thanh lịch, dân số tăng quá nhanh đã làm văn hóa truyền thống của Hà Nội phai nhạt. Phong cảnh đẹp trữ tình ấy đã thay đổi ? Hà Nội đổi mới trong tiếng kèn xe ồn ào, những khu nhà bê tông lạnh lùng, chẳng còn gì thơ mộng. Những con đường chen chúc người xe, khói xăng mù mịt....Hà Nội, chỉ còn lại dư âm trong lòng người, trong đôi mắt em !

Nguyễn Quý Ðại

Thăm Hà Nội hè 2003


(1) Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài
Mã vĩ, hàng Điếu, hàng Giày,
Hàng lờ, hàng Cót, hàng Mây hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Than,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Đồng,
Hàng Muối, hàng Nón, Cầu Đông,
Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông,hàng Bè
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre
Hàng Vôi, hàng Giấy,hàng The, hàng Gà.“

No comments: